Nguyên nhân
Nguyên nhân gây nhiễm khuẩn huyết là vi khuẩn hoặc vi nấm. Nhiễm trùng huyết, bao hàm cả tác nhân gây bệnh, ngoài vi khuẩn, vi nấm, có thể do virút, nhưng trong thực tế nhiễm trùng huyết do virút rất khó xác định. Đối với vi khuẩn, vi nấm có rất nhiều loại vi khuẩn có thể gây nhiễm trùng huyết xuất phát từ ổ nhiễm khuẩn ban đầu (áp-xe, chấn thương có tổn thương phần mềm, nhiễm khuẩn các cơ quan…), do thao tác y tế không vô khuẩn (tiêm, truyền dịch, nhổ răng, châm), do dụng cụ y tế không tuyệt đối vô khuẩn dùng trong các thao tác phẫu thuật hoặc thủ thuật (nong niệu đạo, nong cổ tử cung, phẫu thuật…).
Vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết rất đa dạng, gồm cả các loại vi khuẩn Gram dương (tụ cầu, liên cầu, não mô cầu, phế cầu…), nguy hiểm nhất là tụ cầu vàng (S. aureus), đặc biệt là loại tụ cầu kháng lại Methicilin (MRSA: Staphylococcus aureus kháng methicillin). Loại tụ cầu vàng kháng methicilin, ở trên da, chúng thường vô hại nhưng nếu chúng xâm nhập vào cơ thể qua vết thương, sẽ gây bệnh và rất dễ xâm nhập vào máu gây nhiễm khuẩn huyết. Bên cạnh các vi khuẩn Gram dương, có nhiều loại vi khuẩn Gram âm có khả năng gây nhiễm khuẩn huyết, trong đó đáng chú nhất là một số vi khuẩn đường ruột như E.coli, Salmonella hoặc trực khuẩn mủ xanh (P. aeruginasa) và một số vi khuẩn kỵ khí thường gặp gây nhiễm khuẩn huyết là Clostridium perfringens và Bacteroides fragilis.
Đặc biệt nguy hiểm là loại tụ cầu kháng lại Methicilin (Staphylococcus aureus)
Triệu chứng
Điều đáng chú nhất của bệnh nhiễm khuẩn huyết là tập hợp những biểu hiện lâm sàng của một tình trạng nhiễm trùng- nhiễm độc toàn thân rất nặng, có nguy cơ tử vong nhanh bởi choáng (sốc), suy đa tạng bởi độc tố của vi khuẩn hoặc vi nấm. Bởi vậy, sau các triệu chứng của nhiễm trùng bệnh khởi phát (ổ áp-xe, nhọt ở da, nhiễm trùng vết mổ, vết thương…), xuất hiện đột ngột sốt cao, rét run. Sốt cao tăng dần và một ngày có thể có nhiều cơn sốt cao., rét run. Cơn sốt có thể lên tục nhưng có trường hợp sốt cao, dao động hoặc đôi khi sốt thất thường không theo một quy luật nào và kèm theo đau khắp mình mẩy. Tuy nhiên, trong một số trường hợp do sức đề kháng yếu (người già yếu, trẻ còi xương suy dinh dưỡng nặng, người suy giảm miễn dịch) có thể không sốt cao. Các triệu chứng của thần kinh bắt đầu xuất hiện như kích, mê sảng hoặc đôi khi lơ mơ, li bì. Song song với các triệu chứng trên, mạch nhanh nhỏ, không đều, huyết áp tụt, thở nhanh, nông. Hiện tượng xuất huyết có thể bắt đầu xảy ra (xuất huyết dưới da, xuất huyết nội tạng như chảy máu đường tiêu hóa…). Trong trường hợp nhiễm khuẩn huyết nặng có thể bị choáng nhiễm khuẩn rất nguy kịch.
Vì vậy, hậu quả của nhiễm khuẩn huyết là hết sức nặng nề như gây viêm nội mạc mao quản, gan, lách sưng to, có thể gây nên các ổ áp-xe ở phổi, tràn mủ màng phổi. Nhiễm khuẩn huyết cũng có thể gây nên viêm nội tâm mạc, viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim, viêm động mạch, viêm tắc tĩnh mạch thứ phát. Ngoài ra, nhiễm khuẩn huyết có thể gây viêm màng não, áp-xe não, suy thận cấp hoặc tác động xấu đến xương khớp (viêm tràn dịch mủ khớp, viêm tủy xương)…
Cần xét nghiệm công thức máu, đặc biệt là xét nghiệm vi sinh để xác định loại vi khuẩn hoặc vi nấm gây bệnh
Để chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết, ngoài các triệu chứng lâm sàng cần xét nghiệm công thức máu (hồng cầu, huyết sắc tố giảm, bạch cầu tăng cao), đặc biệt là cấy máu (xét nghiệm vi sinh) để xác định loại vi khuẩn hoặc vi nấm gây bệnh. Nếu có điều kiện nên tiến hành làm kháng sinh đồ để giúp bác sỹ có cơ sở chọn kháng sinh thích hợp điều trị. Siêu âm ổ bụng, màng phổi, khớp cũng rất cần thiết.
Nguyên tắc điều trị
Trong khi chờ kết quả của kháng sinh đồ, cần điều trị kháng sinh sớm ngay từ giờ đầu khi nghĩ đến nhiễm khuẩn huyết (theo dự đoán là loại vi khuẩn gì) sau khi đã lấy máu để nuôi cấy vi khuẩn theo phác đồ của Bộ Y tế. Cần lưu ý là phải dùng kháng sinh liều cao, phổi hợp kháng sinh, đủ thời gian và dùng theo đường tĩnh mạch là tốt nhất, nhanh nhất. Khi có kết quả của kháng sinh đồ cần tham khảo để điều chỉnh kháng sinh phù hợp nhất. Sau khi đã dùng kháng sinh đủ liều lượng, hết các triệu chứng lâm sàng, cấy máu không còn vi khuẩn, có thể ngưng dùng kháng sinh. Song song cần điều trị hỗ trợ hồi sức thật tốt (thở oxy, đặt nội khí quản, truyền dịch để cân bằng nước và chất điện giải, lợi tiểu…). Cần lưu ý, trong nhiễm khuẩn huyết không dùng corticoid để điều trị.
Để phòng bệnh nhiễm khuẩn huyết cần tích cực điều trị dứt điểm các ổ nhiễm khuẩn ban đầu (áp-xe, mụn, nhọt, các chấn thương, vết thương nhiễm trùng,…). Phải vô trùng tuyệt đối các dụng cụ y tế. Cán bộ y tế (bao gồm cả bác sĩ, phẫu thuật viên, điều dưỡng…) trước khi thực hiện các thủ thuật, phẫu thuật phải tuân thủ vô trùng tuyệt đối từ khâu rửa sạch tay, sát khuẩn, đến quần, áo, mũ, khẩu trang… Trong bệnh viện phải nghiêm túc thực hiện vô khuẩn tuyệt đối để không xảy ra nhiễm trùng bệnh viện.