1. Tràn khí màng phổi do đâu?
Bình thường khoang màng phổi không có khí, tràn khí màng phổi là xuất hiện khí trong khoang màng phổi. Khí có thể vào trong khoang màng phổi theo đường thở, phế nang vào màng phổi do rách màng phổi tạng hoặc qua thành ngực, cơ hoành, trung thất hoặc thực quản (trong vết thương thấu ngực). Ngoài ra, khí có thể vào trong khoang màng phổi do các vi sinh vật trong khoang màng phổi sinh khí.
Do tràn khí màng phổi gây tăng áp lực màng phổi làm cho phổi bị xẹp xuống, phổi xẹp là khả năng co đàn hồi của nhu mô phổi. Chính vì vậy, việc phát hiện sớm là vô cùng quan trọng.
Người ta phân chia thành 2 loại tràn khí màng phổi.
1.1. Đối với tràn khí màng phổi tự phát
Tràn khí màng phổi tự phát hay gặp ở người không có bệnh lý phổi, chấn thương hay phẫu thuật liên quan nào mà hoàn toàn khỏe mạnh. Các nhà nghiên cứu cho rằng hoạt động trao đổi khí của phổi hoặc tổn thương đột ngột khiến một phần nhỏ của màng phổi bị rách, từ đó không khí tràn ngược vào màng phổi.
Khi tình trạng này xảy ra, khí ứ đọng sẽ làm tổn thương phế nang, khiến phổi xẹp lại và không thể thực hiện chức năng trao đổi khí. Theo nghiên cứu, tràn khí màng phổi tự phát thường gặp ở người trẻ từ 20-30 tuổi, tỷ lệ nam 4/1 so với nữ. Theo Salmeron thì tỷ lệ hàng năm của tràn khí màng phổi là 9/100.000 dân, tái phát > 28% .
Có khoảng 20% tràn khí màng phổi là biến chứng của các bệnh nhiễm trùng phổi. Nhưng khoảng 40% tràn khí màng phổi do lao và 40% không rõ nguyên nhân. Khoảng 25% tràn khí màng phổi tái phát sau 2 năm, 50% tái phát sau 6 năm. Thường tràn khí màng phổi gặp trong cơn hen nặng
Tại Anh, theo một thống kê, trung bình cứ 10.000 người trưởng thành lại có khoảng 2 người mắc chứng tràn khí màng phổi tự phát. Trong đó, nam giới dễ mắc bệnh hơn nữ giới, lứa tuổi mắc bệnh chủ yếu là dưới 40 tuổi. Những người hút thuốc lá có nguy cơ cao mắc bệnh hơn, nguyên nhân là hóa chất trong khói thuốc khiến cho thành màng phổi mỏng hơn, dễ rách hơn.
Ngoài ra còn một dạng tràn khí màng phổi xảy ra ở phụ nữ độ tuổi sinh sản là tràn khí màng phổi theo chu kỳ kinh nguyệt. Đặc điểm bệnh khá giống với trường hợp tự phát thông thường, song khởi phát bệnh liên quan đến các chu kỳ kinh nguyệt. Nguyên nhân là do trong chu kỳ, một lượng nhỏ mô tử cung di chuyển lên làm tổ ở màng phổi, gây rách, tổn thương và tràn dịch.
Những người từng bị tràn dịch màng phổi dù được điều trị tích cực thì nguy cơ tái phát khá cao, khoảng 30%. Hầu hết trường hợp tái phát xảy ra ở cùng bên phổi, trong vòng 3 năm đầu kể từ lần phát bệnh trước.
1.2. Tràn khí màng phổi thứ phát
Với tràn khí màng phổi thứ phát nguyên nhân chủ yếu là do biến chứng của vỡ phế nang ở bệnh phổi cấp tính hoặc mạn tính và không liên quan tới chấn thương. Hoặc có thể xảy ra ở những bệnh nhân có các bệnh lý nền tại phổi như viêm phổi, dị vật đường thở, hít nước ối phân xu,…Đây là thể nhiều người bệnh gặp nguy hiểm, đa số trường hợp có tiên lượng xấu hơn tự phát do bệnh lý nền ở phổi khiến chức năng phổi suy giảm nặng hơn.
Ngoài ra, còn một số nguyên nhân khác gây tràn khí ở màng phổi như: chấn thương ngực, phẫu thuật vùng ngực làm tổn thương màng phổi, biến chứng bệnh lạc nội mạc tử cung,…
2. Dấu hiệu tràn khí màng phổi
Tràn khí màng phổi khởi phát đột ngột, đau ngực dữ dội có thể đau chói hoặc đau như xé ngực. Người bệnh có biểu hiện khó thở, cảm giác ngột ngạt, triệu chứng khó thở phụ thuộc vào mức độ tràn khí và bệnh phổi có trước đó. Có thể ho khan, toàn thân có thể bình thường hoặc sốt. Nếu tràn khí màng phổi mức độ nhiều (tràn khí van) người bệnh khó thở nặng, có biểu hiện suy hô hấp cấp: tím tái, vật vã, mạch nhanh, huyết áp tụt (tình trạng sốc) .
Biểu hiện choáng điển hình ở bệnh nhân tràn khí màng phổi, khi đó người bệnh có biểu hiện vã mồ hôi, người tái xanh, tụt huyết áp, tinh thần hốt hoảng, tay chân lạnh, mạch đập nhanh và nông,…
Ngoài ra, bệnh nhân có thể có triệu chứng đau nhói vai theo cơn ho. Tuy nhiên không nhiều trường hợp bệnh nhân có triệu chứng này, nếu có thì triệu chứng cũng không kéo dài lâu và không thường nặng lên.
Để chẩn đoán tràn khí màng phổi ngoài biểu hiện lâm sàng các bác sĩ sẽ dựa trên các triệu chứng hô hấp và toàn thân trên, cùng với đó là dấu hiệu cận lâm sàng, thường là chụp X-quang phổi, chụp cắt lớp vi tính, khám thực thể,…
Biểu hiện bệnh đa phần là rầm rộ, dễ nhận biết song ở một số bệnh nhân, biểu hiện lâm sàng rất nghèo nàn, dễ gây nhầm lẫn và bỏ sót.
Tóm lại: Tràn khí màng phổi là tình trạng cấp cứu nguy hiểm, có thể khiến người bệnh tử vong do biến chứng hô hấp. Vì thế nếu phát hiện các dấu hiệu bệnh nghi ngờ, cần sớm đưa bệnh nhân tới cơ sở y tế điều trị. Sau điều trị, cần theo dõi và phòng ngừa bệnh tái phát dưới sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.
Mời độc giả xem thêm video:
Cực nguy hiểm nếu cho trẻ ăn mặn