Sốt phát ban dạng sởi do virus sởi gây ra. Bệnh có đặc điểm lâm sàng là sốt, viêm long đường hô hấp, đường tiêu hóa, viêm kết mạc mắt, phát ban có thứ tự.
Các triệu chứng của sốt phát ban dạng sởi rất dễ nhầm với biểu hiện của bệnh Rubella (hay còn gọi là bệnh sởi Đức). Bên cạnh đó, các dạng phát ban của sởi có thể nhầm với các phát ban do dị ứng nên người bệnh thường hay chủ quan.
Bệnh sốt phát ban dạng sởi ở trẻ em thường gặp nhất ở trẻ thuộc nhóm tuổi từ 6 – 36 tháng tuổi. Tuy nhiên, cũng có thể gặp sốt phát ban dạng sởi ở người lớn do chưa được tiêm phòng hoặc đã tiêm phòng nhưng chưa được tiêm nhắc lại.
Dấu hiệu nhận biết sốt phát ban dạng sởi qua từng giai đoạn phát bệnh
Giai đoạn ủ bệnh
Thời gian ủ bệnh khoảng từ 8 – 11 ngày. Người bệnh thường không có biểu hiện rõ ràng. Nếu là trẻ sơ sinh có thể kéo dài 14 – 15 ngày.
Giai đoạn khởi phát (viêm xuất tiết)
Thông thường, giai đoạn này khởi phát khoảng 3 – 4 ngày. Người bệnh đột ngột sốt nhẹ hoặc vừa, sau sốt cao. Kèm theo các biểu hiện như viêm xuất tiết mũi, họng, chảy nước mắt nước mũi, ho, viêm màng tiếp hợp, mắt có gỉ kèm nhèm, sưng nề mi mắt; ho, hắt hơi, chảy nước mũi, sau có thể có viêm thanh quản.
Giai đoạn toàn phát (giai đoạn mọc ban)
Ban mọc vào ngày thứ 4 – 6 của bệnh. Khi ban bắt đầu mọc, người bệnh sẽ sốt cao, cơ thể mệt mỏi. Khi ban mọc đến chân, nhiệt độ sẽ giảm dần rồi hết.
Thường vào ngày thứ 6-7 ban bắt đầu bay để lại các vết thâm có tróc da mỏng, mịn. Toàn thân bệnh nhân hồi phục dần nếu không bội nhiễm, biến chứng…
Dạng ban là ban dát sẩn, ban nhỏ hơi nổi gờ trên mặt da, xen kẽ là các ban dát màu hồng. Ban mọc rải rác hay lan rộng và dính liền với nhau thành từng đám tròn, giữa các ban là khoảng da lành.
Ban mọc theo thứ tự, ngày thứ 1 mọc ở sau tai, lan ra mặt. Ngày thứ 2 lan xuống đến ngực, tay. Ngày thứ 3 lan đến lưng, chân. Ban kéo dài 6 ngày rồi bay theo thứ tự như nó đã mọc. Khi ban mọc ở đường tiêu hóa sẽ gây rối loạn tiêu hóa, đi lỏng; ở phổi gây viêm phế quản, ho.
Biến chứng sốt phát ban dạng sởi có nguy hiểm?
Khi mắc bệnh nếu không được điều trị hoặc do bệnh nhân tự ý điều trị dẫn đến bội nhiễm và có những biến chứng như:
Biến chứng đường hô hấp
Viêm thanh quản: ở giai đoạn khởi phát hay có Croup giả, gây cơn khó thở do co thắt thanh quản. Ở giai đoạn muộn do bội nhiễm (hay gặp do tụ cầu, liên cầu, phế cầu…), xuất hiện sau mọc ban. Diễn biến thường nặng như sốt cao, ho, khàn tiếng, khó thở, tím tái.
Viêm phế quản: thường do bội nhiễm, xuất hiện vào cuối thời kỳ mọc ban. Biểu hiện sốt lại, ho nhiều.
Viêm phế quản – phổi: do bội nhiễm, thường xuất hiện muộn sau mọc ban. Bệnh nặng có sốt cao, khó thở, khám phổi có ran phế quản và ran nổ. Đây là nguyên nhân gây tử vong trong bệnh sởi, nhất là ở trẻ nhỏ.
Biến chứng thần kinh
Viêm não: đây là biến chứng nguy hiểm gây tử vong và di chứng cao. Gặp ở 0,1 – 0,6% bệnh nhân sốt phát ban và sởi. Thường gặp ở trẻ lớn (tuổi đi học), vào tuần đầu của ban (ngày 3 – 6 của ban). Khởi phát đột ngột, sốt cao, co giật, rối loạn ý thức: hôn mê, liệt 1/2 người hoặc 1 chi, liệt dây III, VII, hay gặp hội chứng tháp – ngoại tháp, tiểu não, tiền đình…
Viêm màng não kiểu thanh dịch (do virus sởi)
Viêm tủy: liệt 2 chi dưới, rối loạn cơ vòng.
Viêm màng não mủ do bội nhiễm: viêm màng não mủ sau viêm tai, viêm xoang, viêm họng… do bội nhiễm.
Viêm não chất trắng bán cấp xơ hóa (Van Bogaert): hay gặp ở tuổi 2 – 20 tuổi, xuất hiện muộn có khi sau vài năm, điều này nói lên virus sởi có thể sống tiềm tàng nhiều năm trong cơ thể bệnh nhân, ở những bệnh nhân có đáp ứng miễn dịch bất thường. Diễn biến bán cấp từ vài tháng đến 1 năm. Bệnh nhân tử vong trong tình trạng tăng trương lực cơ và co cứng mất não.
Biến chứng đường tiêu hóa
Viêm niêm mạc miệng, cam tẩu mã (xuất hiện muộn, do bội nhiễm xoắn khuẩn Vincent (Leptospira vincenti) là một loại xoắn khuẩn hoại thư, gây loét niêm mạc miệng, lan sâu rộng vào xương hàm gây hoại tử niêm mạc, viêm xương, rụng răng, hơi thở hôi).
Biến chứng Viêm ruột
Do bội nhiễm các loại vi khuẩn như Shigella, E.coli…
Tóm lại: Do là sốt phát ban nên bệnh có thể nhầm với các loại sốt phát ban khác cần chẩn đoán phân biệt để được điều trị kịp thời. Vì vậy, khi có biểu hiện nghi ngờ cần đưa người bệnh đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị.