Dấu hiệu nguy hiểm của viêm tủy xương

24-05-2017 09:03 | Bệnh thường gặp
google news

SKĐS - Viêm xương tủy cấp là bệnh lý hệ xương từ đường máu do nhiều căn nguyên gây ra.

Viêm xương tủy cấp là bệnh lý hệ xương từ đường máu do nhiều căn nguyên gây ra. Bệnh thường xảy ra ở trẻ nhỏ với diễn tiến gây hạn chế vận động hoặc điều trị muộn trẻ có thể bị ngắn xương và biến dạng.

Cơ chế gây tổn thương tủy xương ở trẻ em bắt đầu trong thân xương. Tác nhân nhiễm trùng theo đường máu đi vào mạch máu ở xương, làm thuyên tắc động mạch nuôi gây ra thiếu máu và ngăn cản cơ chế phòng vệ đến được nơi này. Kém tưới máu màng ngoài xương gây hoại tử, tiêu xương. Quá trình viêm xảy ra ở mô liên kết giữa các mô kế cận. Sau nhiều ngày sẽ có tình trạng tràn dịch vô khuẩn do phản ứng xảy ra ở gần khớp. Không điều trị mô hạt sẽ mọc quanh xương chết, tách rời vỏ xương và hình thành mảnh xương chết. Xương mới mọc sẽ xuất hiện xung quanh xương chết tạo thành bao xương chứa các ống xoang giữa xương nên dễ bị gãy. Tổn thương hoại tử có thể lan rộng quanh thân xương, đến vùng xương tăng trưởng và vào cả khớp.

Vị trí tổn thương

Bất kì xương nào cũng có thể tổn thương, vị trí hay gặp là các đầu xương dài, nơi xương mềm, có tủy đỏ. Ở trẻ lớn, viêm xương đường máu ít khi đi quá sụn phát triển rồi vào khớp, nhưng do cấu trúc đầu trên xương đùi (nằm trong khớp háng) nên viêm mủ hay phá vào khớp, gây ra trật khớp, viêm tiêu chỏm xương đùi; Xương càng phát triển càng dễ bị viêm; Liên quan tới tiền sử chấn thương khoảng 50%; Vi khuẩn chủ yếu là tụ cầu vàng gây bệnh.

Viêm xương tủy cấp thường thứ phát sau ổ viêm nhiễm của đường hô hấp trên như viêm tai - mũi - họng, phế quản phế viêm...Viêm xương tủy cấp ở trẻ em mang tính chất nhiễm trùng toàn thân. Tại chi viêm, giới hạn viêm không rõ ràng, vừa có tính phá hủy vừa có tính tái tạo xương mới.Tác nhân nhiễm trùng theo mạch máu đi vào xương.

Tác nhân nhiễm trùng theo mạch máu đi vào xương.

Dấu hiệu nhận biết

Viêm xương tủy cấp chủ yếu gặp ở tuổi học đường tuổi từ 6-16, chiếm  80% số ca mắc bệnh. Giai đoạn đầu dấu hiệu mơ hồ, không rõ ràng, dễ bỏ qua. Thông thường trẻ bỗng nhiên sốt cao, nhiễm trùng nhẹ. Trẻ kêu đau quanh chi, hạn chế hoạt động (trái với thường lệ). Khám thấy sưng nề nhẹ quanh đầu xương (hay gặp nhất viêm xương quanh gối), ấn vào khớp không đau. Ở giai đoạn muộn khi viêm đã phá ra tổ chức phần mềm, toàn thân bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn, trùng rõ. Tại chỗ có ổ áp-xe cơ ở chi: sưng - nóng - đỏ - đau và ở giữa bùng nhùng mủ. Nhiều khi có lỗ dò mủ ra ngoài. Lỗ dò mủ do viêm xương có đặc điểm điển hình: da quanh lỗ dò thâm, da sát xương, mủ chảy qua lỗ dò mùi hôi, tanh...

Giai đoạn cấp tính

Viêm lan tỏa trong tủy xương, sau đó theo tổ chức liên kết của mạch máu, rồi theo ống Havers. Ổ mủ hình thành ở hành xương, quanh ổ mủ xương bị tiêu, phá hủy dưới màng xương và lan ra phần mềm (thành ổ áp-xe), cuối cùng vỡ ra ngoài da thành viêm dò mạn tính. Viêm xương tủy thứ phát sau một ổ nhiễm trùng kế cận: Như tổn thương phần mềm, loét trợt do tỳ đè, viêm mô tế bào, loét da dinh dưỡng... Thông thường chẩn đoán dạng này thường chậm, khi nhiễm khuẩn đã trở thành mạn tính. Các triệu chứng đau, sốt, sưng nóng đỏ biểu hiện cấp tính có thể do ổ viêm ban đầu. Đau, tiết dịch tại chỗ dai dẳng. Khi phát triển thành viêm mạn tính thường triệu chứng toàn thân và tại chỗ không rầm rộ.

Giai đoạn mạn tính: Bệnh viêm cốt tủy cấp có thể tiến triển âm ỉ thành mạn tính với diễn tiến bệnh kéo dài, có những giai đoạn im lặng nhưng tái diễn nhiều lần (<5%). Các biến chứng muộn có thể gặp là gãy xương bệnh lý. Có hai quá trình xảy ra đồng thời với nhau: Quá trình hủy hoại: tạo các hốc mủ, tổ chức hạt, tổ chức xơ, vi khuẩn và miếng xương chết. Quá trình tái tạo: màng xương phản ứng mạnh mẽ sinh ra xương mới.

Chẩn đoán bệnh

Nếu nghi ngờ các bác sĩ sẽ chỉ định làm một số xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán  với các bệnh lý bại liệt thể sớm, có vùng dịch tễ, không sưng nóng ở chi, khám chuyên khoa nhi - lây để loại trừ. Bệnh thấp khớp ở vị thành niên: tìm kháng nguyên, kháng thể liên cầu. Bệnh viêm nhiễm phần mềm...

Các xét nghiệm bao gồm: Xquang  trong 7-10 ngày đầu, triệu chứng Xquang chưa rõ ràng. Sau 12 ngày, dấu hiệu viêm xương bắt đầu rõ. Ngoài ra, các bác sĩ sẽ chỉ định chụp cắt lớp xương có thể giúp thấy các thay đổi của phần mềm do phản ứng viêm. Các xét nghiệm máu tốc độ máu lắng cao, bạch cầu tăng...

Về mặt điều trị: vừa phải điều trị toàn thân (tăng sức đề kháng, điều trị tiệt căn ổ viêm nguyên phát), vừa phải điều trị tại chỗ. Tiên lượng tốt nếu điều trị sớm, để muộn kết quả thường kém và để lại di chứng.


BS. Ngọc Hòa
Ý kiến của bạn