Các dấu hiệu, triệu chứng của bệnh sán lá gan lớn thường không đặc hiệu, tùy thuộc vào giai đoạn phát triển và vị trí ký sinh, cũng như số lượng ấu trùng xâm nhập vào cơ thể người. Một số người nhiễm sán lá gan không có biểu hiện triệu chứng trên lâm sàng. Một số người có thể có dấu hiệu triệu chứng sớm hơn sau khi nhiễm trùng, khi ấu trùng sán lá gan lớn xâm nhập và khoang bụng và vào gan. Các biểu hiện có thể xảy ra trong giai đoạn cấp tính bắt đầu sau 4- 7 ngày sau khi nhiễm ký sinh trùng và kéo dài trong vài tuần. Một số người có thể có dấu hiệu triệu chứng trong giai đoạn nhiễm trùng mạn tính khi ấu trùng ở trong đường mật. Nếu có các triệu chứng sẽ xuất hiện sau vài tháng đến vài năm kể từ khi bị sán lá gan lớn do hậu quả của viêm đường mật. Trong cả giai đoạn nhiễm trùng cấp tính và mạn tính, dấu hiệu triệu chứng thường gặp là sốt, mệt mỏi, đầy bụng, khó tiêu, đau bụng, vàng da, vàng mắt. Các biểu hiện nặng, biến chứng như tắc mật, viêm tụy cấp, xuất huyết tiêu hóa, vỡ gan, tràn dịch đa màng... Ngoài ra, một người bị bệnh sán lá gan lớn có thể gặp các dấu hiệu khác nhưng hiếm hơn như đau nhiều khớp, ho, khó thở, ban dị ứng…hoặc các triệu chứng biểu hiện sự tổn thương tổ chức nơi sán lá gan lớn ký sinh lạc chỗ như dưới da, lách, đại tràng,..
Sán lá gan lớn không thể lây truyền trực tiếp từ người sang người.Vật chủ chính của sán lá gan là động vật ăn cỏ như trâu, bò, cừu. Vật chủ trung gian truyền bệnh là loài ốc họ Lymnae.Trứng từ phân của người nhiễm sán lá gan hoặc từ động vật xuống nước, nở ra ấu trùng và ký sinh trong ốc, phát triển thành ấu trùng đuôi rời khỏi ốc và bám vào các loài rau mọc dưới nước tạo các nang trùng hoặc bơi tự do trong nước. Người bị nhiễm bệnh do ăn sống các loại rau mọc dưới nước (râu ngổ, rau rút/nhút, rau cần, cải xoong,..) hoặc uống nước có ấu trùng sán chưa nấu chín.