Mặc dù tiên lượng là lành tính, colic là một vấn đề quan trọng ở trẻ và gánh nặng tâm lý và thể chất đối với bố mẹ. Nó có liên quan với các hậu quả sau này như các tình trạng rối loạn chức năng dạ dày- ruột, dị ứng, giận dữ, đau đầu migrain, rối loạn hành vi và giấc ngủ.
Vai trò của probiotic trong việc giảm colic cho trẻ em đã có bằng chứng ngày càng tăng trong một số thử nghiệm lâm sàng. Trẻ nhũ nhi bị colic gia tăng nồng độ IL-8, MCP-1 và MIP-1b trong huyết thanh so với trẻ khỏe mạnh. Colic trẻ nhũ nhi có liên quan đến đáp ứng viêm cấp độ thấp (LGI) có thể do biến đổi thành phần vi khuẩn chí đường ruột (VKCĐR). Một lời khuyên chung trước tiên tập trung trấn an và tư vấn cho tất cả các gia đình. Probiotics có thể có vai trò trong colic bỡi sự thay đổi VKCĐR, giảm viêm ruột và do đó làm giảm khóc.
Hội chứng quấy khóc trẻ nhũ nhi (colic) là mối quan tâm chung của cha mẹ
Đau bụng colic
Hội chứng quấy khóc trẻ nhũ nhi (colic) là mối quan tâm chung của cha mẹ, một lý do để tìm kiếm sự giúp đỡ và lời khuyên từ các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ. Nó có thể gây nhầm lẫn và khởi đầu cho sự lạm dụng chấn thương đầu. Từ năm 1994, hơn 12 nghiên cứu bệnh chứng chỉ ra rằng có sự khác biệt hệ vi khuẩn đường ruột giữa trẻ nhũ nhi có colic và không có colic. Một số nghiên cứu cho thấy trẻ colic ít có vi khuẩn thường trú tại ruột hoặc có sự khác nhau về thành phần Lactobacillus so với trẻ không có đau bụng colic.
Đã có nhiều nghiên cứu kết luận trẻ nhũ nhi colic có nhiều vi khuẩn Gram âm giống E.Coli hơn những trẻ không colic. Một nghiên cứu cắt ngang và 2 nghiên cứu bệnh chứng cho thấy Bifidobacterium có thể bảo vệ không bị colic. Helicobacter pylori và Clostridium difficile cũng được tìm thấy ở trẻ nhũ nhi bị colic so với những trẻ không có colic. Cơ chế của colic cho đến nay vẫn chưa được chứng minh, nhưng có thể có con đường thông qua sự viêm ruột.
Calprotectin là một marker đã được chứng minh có sự gia tăng trong viêm ruột, dị ứng protein sữa bò, Celiac, viêm ruột hoại tử và xơ nang ruột. Nhiều nghiên cứu chứng minh trẻ nhũ nhi colic có Calprotectin/phân gấp đôi so với những trẻ không có colic, mặc dù một nghiên cứu qui mô lớn hơn khác đã không tìm thấy có sự khác biệt nào về Calprotectin/phân ở trẻ nhũ nhi có và không có colic. Giống như những nghiên cứu trước đây, E.Coli là thường gặp nhất trong trẻ nhũ nhi bị colic, thêm vào các bằng chứng cho thấy sự hiện diện các chủng vi khuẩn gram âm trong ruột có thể gây colic. Tuy nhiên tỉ lệ E.Coli không liên quan với thời gian khóc, và trên thực tế làm biến mất colic ở đại đa số trẻ nhũ nhi.
Tiêu chuẩn chẩn đoán colic
Các định nghĩa về colic rất khác nhau, từ các triệu chứng về tiêu hóa đến khóc khó cầm nín được nên tỉ lệ hiện mắc dao động 1,5% - 11,9% tùy theo áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán. Colic là tình trạng khóc quá mức, nhiều hơn bình thường thể hiện qua các điểm sau. Khóc thét dữ dội, mặt đỏ ửng, xảy ra cùng một thời điểm trong ngày, thường là khóc về chiều, tối và khuya. Giấc ngủ không sâu và trẻ thường khóc ré lên khi đang ngủ. Việc ăn uống cũng bị gián đoạn bởi những cơn khóc quấy.
Một số nghiên cứu khác ước tính ảnh hưởng đến 43% trẻ dưới 3 tháng tuổi, một đánh giá hệ thống gần đây tỷ lệ hiện mắc là từ 2 - 73%, với trung bình 17,7%. Ngày càng có nhiều colic được định nghĩa về tổng số thời gian và khóc. Định nghĩa được sử dụng rộng rãi nhất cho colic là “Quy tắc số ba”: tức là trẻ nhũ nhi được cho là colic nếu trẻ đó khóc> 3 giờ/ngày, > 3 ngày mỗi tuần và trong> 3 tuần.
Tiêu chuẩn chẩn đoán gần đây của Rome III do một nhóm chuyên gia Tiêu hóa Nhi xác định giai đoạn đau bụng colic ở trẻ nhũ nhi là từ 2 tuần tuổi - 4 tháng, khóc kéo dài ít nhất 3 giờ/ngày và xuất hiện ít nhất 3 ngày một tuần trong ít nhất 1 tuần.
Colic và những ảnh hưởng của nó
Ngoài những ảnh hưởng gây phiền hà cho gia đình, làm cho gia đình gánh nặng thêm về mặt tâm lý, lo lắng, mất thời gian đưa trẻ đi khám bệnh. Bên cạnh đó một số nghiên cứu đã cố gắng tìm mối liên quan giữa colic và các bệnh khác có thể xuất hiện về sau. Có nghiên cứu đã tìm thấy mối liên quan giữa colic và các rối loạn dị ứng, đau bụng tái diễn và Migrain về sau.
Việc sử dụng probiotics làm giảm tình trạng viêm do colic gây ra
Korja R (2014), nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa colic và thay đổi hành vi trong thời thơ ấu như cơn giận dữ, rối loạn giấc ngủ và rối loạn tâm thần. Nghiên cứu Cohort kết luận rằng trẻ sơ sinh khóc kéo dài trong cơn colic cho thấy chỉ số thông minh thấp hơn lúc 5 tuổi so với nhóm chứng, và một nghiên cứu khác cũng cho thấy có kết quả học tập thấp hơn trong thời thơ ấu Wolke D (2009).
Sự liên quan ảnh hưởng giữa colic trẻ nhũ nhi và sự phát triển dị ứng ở trẻ em giống như một chuỗi các nguyên nhân và hậu quả lẫn nhau, do đó nhiều nghiên cứu đã cố gắng liên kết giữa hai tình trạng này, và cho rằng trẻ nhũ nhi colic là yếu tố sớm tạo thành khò khè, hen suyễn. Một nghiên cứu khác của Kalliomki M cũng cho kết quả tương tự là có mối liên quan giữa colic và bệnh dị ứng.
Có nghiên cứu đã tìm thấy mối liên quan giữa colic và các rối loạn dị ứng, đau bụng tái diễn và Migrain về sau
Các nguyên nhân tiềm ẩn của colic
- Dị ứng protein sữa bò.
- Bất dung nạp lactose thoáng qua.
- Đau co thắt ruột.
- Tăng nồng độ hoóc-môn ruột (Motilin và Ghrelin) gây tăng nhu động ruột.
- Mẹ hút thuốc làm tăng Motilin.
- Sự mất cân bằng vi khuẩn chí đường ruột theo hướng nhiều trực khuẩn ruột (coliforms).
- Các vấn đề về hành vi làm cho ít có sự tương tác mẹ và con.
- Bệnh trào ngược dạ dày-thực quản (GERD).
Colic và đáp ứng viêm cấp độ thấp
Sự hình thành vi khuẩn chí đường ruột ở trẻ nhũ nhi
Khi một đứa trẻ được sinh tự nhiên (sinh thường) và không bị nhiễm trùng, vi khuẩn sẽ cư trú trong đường ruột của đứa trẻ đó theo một cấu trúc nhất định trong những tuần đầu sau khi chào đời. Sự tiếp xúc vi khuẩn khởi đầu sau sinh, hệ vi khuẩn chí đường ruột (VKCĐR) ở con người bắt đầu hình thành trong và sau khi sinh, có khuynh hướng giống như hệ VKCĐR ở người lớn vào cuối năm thứ 2 của trẻ. Walker chỉ ra rằng vi khuẩn đầu tiên có thể có nguồn gốc từ phân và âm đạo của người mẹ. Thêm vào nữa, nguồn vi khuẩn khác bao gồm tuyến vú thông qua cho con bú, da, miệng của mẹ và môi trường thông qua việc tiếp xúc ban đầu với trẻ.
Các vi khuẩn ban đầu thường là kị khí bao gồm Enterobacteria, Coliforms, Lactobacilli và Streptococci; sau đó được thay thế bởi Bifidobacterium, Bacteroides, Clostridium và Eubacterium vào cuối tuần đầu tiên của trẻ. Trẻ sinh thường có hệ vi khuẩn tương tự như trong âm đạo và da của bà mẹ, trong khi trẻ sinh mổ lấy thai có hệ vi khuẩn khác và ít đa dạng hơn, nó giống hệ vi khuẩn của nhân viên hỗ trợ và môi trường sinh đẻ. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến sự phát triển của VKCĐR bao gồm tuổi thai khi sinh, việc sử dụng kháng sinh của mẹ, của trẻ trong thời gian đầu và khi nhập viện.
Người ta cho rằng colic bị ảnh hưởng bởi yếu tố hoại tử khối u (TNF) tiết ra trong sữa mẹ làm tăng nồng độ melatonin và serotonin của trẻ, dẫn đến đau bụng, nhưng điều này không giải thích sự hiện diện của đau bụng ở trẻ bú sữa công thức. Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên gần đây, Baldassarre ME (2016) sử dụng probiotic đa chủng liều cao trong suốt thai kỳ, nhận xét có ảnh hưởng đến cytokine và sản xuất IgA trong sữa mẹ, và cải thiện triệu chứng colic.
Tình trạng mất cân bằng thành phần VKCĐR xảy ra trong giai đoạn phát triển, nếu đi kèm một phản ứng viêm, có thể gây ra sự thay đổi về kiểu hình miễn dịch và chuyển hóa ở trẻ colic. Do sự thay đổi hệ VKCĐR và việc điều trị thành công bằng probiotics ở những trường hợp colic, chúng tôi giả thuyết rằng các trẻ colic có thể có phản ứng viêm cấp độ thấp. Theo đó, việc thay đổi thành phần hệ VKCĐR, tình trạng colic ở trẻ em còn có mối liên quan với LGI. Các chủng vi khuẩn đặc biệt dùng để tạo probiotics có thể có chức năng kháng viêm, giúp điều hòa hệ VKCCĐR và làm giảm tình trạng viêm do colic gây ra.
Hơn nữa, việc sử dụng probiotics, những chủng vi khuẩn sống có lợi cho sức khỏe, có kết quả điều trị đầy hứa hẹn cho cả hai trường hợp trên. Các cơ chế hoạt động của probiotic bao gồm tác động vào sự tăng trưởng và hoạt động của hệ vi sinh vật đường ruột, và tăng cường hàng rào bảo vệ miễn dịch của niêm mạc ruột.