DSCK II Bùi Văn Uy
Phẫu thuật u não bằng dao gamma chỉ có hiệu quả với khối u nhỏ. |
Trước khi có dao gamma
U não là khối u nằm trong sọ, chiếm tới 8% các u trong cơ thể và chiếm 10% trong các bệnh lý thần kinh. Nước ta chưa có điều tra về dịch tễ học. Tại Mỹ, theo Fetell (1995), tỷ lệ mắc 16/100.000 dân và theo Fred Hochberg (1994), số ca tử vong hằng năm là 90.000 người.
Trước khi có phẫu thuật bằng dao gamma, phải phẫu thuật mở hộp sọ lấy khối u. Khó khăn: do vị trí u thường nằm ở những vùng chức năng, do hệ thống mạch máu tăng sinh nên khó lấy triệt để khối u. Dĩ nhiên, phẫu thuật này sẽ gây mất máu, có thể gây tổn thương, tai biến với một tỷ lệ nhất định. Song song với phẫu thuật mở hộp sọ còn có xạ trị bằng máy Cobalt-60 hóa trị liệu, gen trị liệu nhưng các liệu pháp này chỉ có tính hỗ trợ.
Dao gamma phẫu thuật là gì?
Từ lâu đã biết tia gamma tạo ra nhiệt lượng lớn. Nhưng mãi đến năm 1968, giáo sư LarsLeksell và Borje Larson (Thụy Điển) mới thấy khi các tia gamma hội tụ tại một điểm thì sẽ tăng liều phóng xạ tại nơi đó mà không gây chảy máu, nhiễm khuẩn. Nhiệt lượng lớn tại nơi hội tụ có thể tiêu diệt dược các khối u bệnh lý. Hội tụ các tia gamma nhỏ vào các tổ chức bệnh lý trong não sẽ tiêu diệt được chúng mà không làm hại mô lành. Lúc này tia gamma đóng vai trò như một con dao mổ, chỉ khác là không cần mở hộp sọ ra như cách mổ mở hộp sọ. Vì thế người ta gọi là dao gamma (gamma knife).
Dao gamma được chỉ định trong u não, trong các bệnh lý khác về não như: các khối u nguyên phát di căn vào não; u màng não, u thần kinh, u tuyến yên, u sọ, các u lành ở nền sọ, u vùng tuyến tùng và tuyến yên, u thính giác, các dị dạng động tĩnh mạch. Tỷ lệ dùng cho các bệnh: u lành 29%-32%, u ác trong sọ: 31-36%, rối loạn chức năng và đau 2%.
Ưu điểm nổi bật của phẫu thuật bằng dao gamma là: Tiêu diệt được triệt để khối u hoặc tổ chức bệnh lý trong sọ mà không cần mở hộp sọ, không gây chảy máu, không làm ảnh hưởng đến tổ chức não lành xung quanh, người bệnh không phải chịu một cuộc mổ não kéo dài, giảm thiểu các biến chứng nặng gây ra như khi phẫu thuật mở hộp sọ. Chẳng hạn: Theo tổng kết của GS. TS. Frank Kryspel - Chủ tịch Hội xạ phẫu Mỹ thì trong 1796 người dùng dao mổ gamma điều trị bệnh lý tổn thương mạch máu não (Arteriovenous Malfonrmations) thì thấp nhất có 71%, cao nhất có 81% tổn thương bị phá hủy. Theo Steiner, nếu thể tích khối u 0,1cm3 thì số tổn thương bị phá hủy là 100%, nếu khối u 1- 4cm3 thì khối u bị phá hủy là 85 % trên tổng số người bệnh điều trị. Qua các con số này, có thể thấy phẫu thuật bằng dao gamma có hiệu quả khá cao.
Khác nhau giữa dao gamma hiện đại và cổ điển
Dao gamma cổ điển (Leksell gamma knife) có 3 bộ phận:
-Bộ phận phát chùm tia gamma có 210 nguồn Cobalt-60, tổng công năng 6.000Ci.
-Bộ phận định hướng (colimator helmet) gắn liền với bộ phận phát tia gamma. Bộ phận này có dạng chụp hình cầu cố định, chứa các bao (dụng cụ) định hướng.
-Bộ phận định vị không gian 3 chiều nhằm "điều khiển" tia gamma đi đúng đến nơi cần hội tụ (tức là nơi cần chữa bệnh).
Dao gamma hiện đại còn gọi là dao gamma quay (Rotating gamma knife) hay gamma ART-6000 (do Công ty American Radiosurgey chế tạo). Việc cải tiến một số bộ phận của dao gama cổ điển đã làm tăng thêm một số tính ưu việt của dao mổ gamma .
Dao gamma quay có bộ phận "định hướng" và bộ phận phát chùm tia gamma sắp xếp đồng tâm quay quanh đầu người bệnh (isocenter) với vận tốc từ 2-4 vòng/phút. Cải tiến này đem đến 2 lợi ích: Dụng cụ "định hướng" chỉ quay quanh đầu nên người bệnh dễ chịu hơn so với khi bị gắn đầu vào mũ định hướng cố định như dao gamma cũ. Cũng do điều này mà không cần phải ngừng điều trị để thay đổi trường chiếu như khi dùng chụp định hướng cố định cũ. Hệ thống lá chắn tại ống "định hướng" làm giảm tán xạ tia gamma nên tia gamma không bị phát tán đi nơi khác, vừa tiết kiệm (nguồn) vừa an toàn hơn (cho người bệnh và nhân viên y tế), từ đó đem lại hiệu suất cao hơn (chỉ cần 30 chứ không phải 210 nguồn tia gamma như dao gamma cũ nhưng vẫn đảm bảo công suất 6.000 Ci). Cũng nhờ hạn chế được sự phát xạ tia gamma mà không gian điều trị có mức phát xạ thấp đảm bảo an toàn cho người bệnh và nhân viên điều trị.
Dao mổ gamma quay có hệ thống điều khiển hiện đại hơn: có khả năng tái tạo ảnh 3 chiều chất lượng cao, hợp nhất các loại ảnh ghi được về sọ não trên các máy chụp CT, MRI, PET, SPECT và Anrigram, lập kế hoạch tự động nhanh, chính xác (độ chính xác cơ học là 0,1mm).
Những hạn chế của dao mổ gamma
Không phải u não nào cũng phẫu thuật được bằng dao gamma. Tổng kết cho thấy phẫu thuật bằng dao gamma chỉ hiệu quả ở những u có đường kính dưới 5cm. Điều này cũng có nghĩa là chỉ có hiệu quả khi phát hiện điều trị sớm, chứ không phải điều trị được bất cứ khối u não bất cứ giai đoạn nào.
Trong phẫu thuật bằng dao gamma, trường chiếu của tia gamma hẹp nên không thể dùng phẫu thuật cho các khối u ngoài não. Ngày nay với những u ngoài não có các phương pháp xạ trị mới như máy xạ trị ngoài bằng Cobalt 60, máy xạ trị gia tốc. Những máy này có liều cao, trường chiếu rộng, có thể hiệu chỉnh liều theo ý muốn.
Để dùng được dao gamma cần phải có sự chẩn đoán và vận hành thiết bị đúng. Do đó đòi hỏi phải có các máy chẩn đoán CT, MRI, SPE, không có các máy này thì không thể có ảnh đưa vào lập trình. Phải có các chuyên gia giỏi như các thầy thuốc chuyên khoa về xạ trị, ung bướu, thần kinh, chẩn đoán hình ảnh. Phải có đội ngũ vận hành máy tốt bao gồm các thầy thuốc, kỹ sư, kỹ thuật viên giỏi. Nếu không có các điều kiện này mà sắm dao mổ gamma sẽ lãng phí.
Cần coi dao mổ gamma như một trong những cách xạ trị, phải được chỉ định đúng, không lạm dụng.