Đánh giá tình trạng dinh dưỡng học đường: Chìa khóa nâng cao sức khỏe và tầm vóc học sinh

06-10-2025 10:49 | Y tế
google news

SKĐS - Dinh dưỡng học đường có vai trò quan trọng trong phát triển thể chất, trí tuệ của học sinh. Việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng định kỳ giúp phát hiện sớm nguy cơ suy dinh dưỡng hay thừa cân, từ đó có giải pháp kịp thời.

Dinh dưỡng học đường từ lâu đã được coi là chìa khóa quan trọng giúp trẻ em phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn trí tuệ. Một bữa ăn đầy đủ, cân đối không chỉ mang đến năng lượng cho việc học tập, vui chơi mà còn góp phần hình thành những thói quen ăn uống khoa học, bền vững cho tương lai. Tuy nhiên, ở nhiều vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bức tranh dinh dưỡng học đường vẫn còn nhiều gam màu trầm.

Thực tế cho thấy, nhiều học sinh nơi đây vẫn đến lớp trong tình trạng đói bụng hoặc chỉ với bữa ăn đơn giản, thiếu đạm, thiếu rau xanh và các vi chất cần thiết. Điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, tập quán canh tác còn hạn chế, thói quen ăn uống chưa khoa học cùng với điều kiện tổ chức bữa ăn bán trú thiếu thốn… Tất cả khiến nguy cơ suy dinh dưỡng, thấp còi hay thiếu vi chất dinh dưỡng vẫn hiện hữu, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển của trẻ.

Vậy làm thế nào để đánh giá đúng tình trạng dinh dưỡng của học sinh vùng cao? Bữa ăn học đường nên được tổ chức ra sao để vừa phù hợp điều kiện thực tế, vừa đảm bảo đủ chất cho trẻ em dân tộc thiểu số? Và đâu là giải pháp lâu dài để cải thiện chất lượng dinh dưỡng học đường tại những nơi còn khó khăn?

Xung quanh những vấn đề này, phóng viên đã có cuộc trao đổi với bác sĩ Hoàng Thị Nguyệt – Khoa Dinh dưỡng, Bệnh viện Đa khoa Bắc Kạn (tỉnh Thái Nguyên) người có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chăm sóc và tư vấn dinh dưỡng cho trẻ em.

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng học đường: Chìa khóa nâng cao sức khỏe và tầm vóc học sinh- Ảnh 1.

Bác sĩ Hoàng Thị Nguyệt – Khoa Dinh dưỡng, Bệnh viện Đa khoa Bắc Kạn (tỉnh Thái Nguyên) trao đổi với phóng viên.

PV: Thưa bác sĩ, với kinh nghiệm nhiều năm theo dõi dinh dưỡng trẻ em, bác sĩ có thể chia sẻ bức tranh tổng thể về tình trạng dinh dưỡng của học sinh ở các vùng cao, vùng dân tộc thiểu số hiện nay? Những vấn đề nào đang khiến các chuyên gia y tế đặc biệt quan tâm?

Bác sĩ Hoàng Thị Nguyệt: Qua nhiều năm theo dõi, chúng tôi nhận thấy tình trạng dinh dưỡng của học sinh vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều thách thức. Các em phải đối mặt với gánh nặng kép về dinh dưỡng: suy dinh dưỡng thể thiếu (thấp còi, nhẹ cân) và thiếu vi chất dinh dưỡng.

Tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi và nhẹ cân ở tỉnh Bắc Kạn trước đây (nay là tỉnh Thái Nguyên) tuy đã giảm so với trước nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mặt bằng chung cả nước. Điều đáng lo ngại là tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu máu do thiếu sắt, thiếu kẽm, vẫn còn phổ biến, nhất là ở trẻ nữ 10–14 tuổi. Thói quen ăn uống đơn điệu, phụ thuộc nhiều vào nguồn lương thực sẵn có như ngô, sắn, rau rừng…, trong khi lại thiếu thực phẩm giàu đạm, sữa, hoa quả tươi… khiến khẩu phần của trẻ chưa cân đối.

Ngoài ra, điều kiện kinh tế khó khăn, đường sá cách trở, dịch vụ y tế và giáo dục hạn chế cũng ảnh hưởng trực tiếp đến bữa ăn và sức khỏe của trẻ. Điều chúng tôi đặc biệt quan tâm là hệ quả lâu dài: trẻ suy dinh dưỡng sẽ chậm phát triển thể chất, trí tuệ, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Đây là vấn đề y tế công cộng cần được ưu tiên giải quyết.

PV: Từ thực tế công tác, bác sĩ nhận thấy những yếu tố nào (điều kiện kinh tế, tập quán ăn uống, môi trường, thói quen gia đình…) là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu dinh dưỡng hoặc mất cân đối dinh dưỡng ở trẻ em miền núi?

Bác sĩ Hoàng Thị Nguyệt: Từ thực tế nhiều năm công tác tại vùng cao, chúng tôi thấy tình trạng thiếu hoặc mất cân đối dinh dưỡng ở học sinh không xuất phát từ một nguyên nhân đơn lẻ mà là sự kết hợp của nhiều yếu tố.

Trước hết, điều kiện kinh tế các hộ gia đình còn khó khăn, bữa ăn của trẻ thường đơn giản, thiếu cả số lượng và chất lượng.

Thứ hai, tập quán ăn uống truyền thống ở một số dân tộc còn nặng về tinh bột, ít chú trọng thực phẩm giàu đạm, rau quả tươi hay sữa. Điều này dẫn đến khẩu phần ăn mất cân đối, thiếu vi chất.

Ngoài ra, môi trường sống và điều kiện vệ sinh chưa đảm bảo. Trẻ dễ mắc các bệnh tiêu chảy, giun sán, nhiễm khuẩn đường ruột, từ đó giảm khả năng hấp thu dinh dưỡng.

Nhận thức và thói quen chăm sóc dinh dưỡng của nhiều phụ huynh còn hạn chế. Không ít cha mẹ chưa tiếp cận đầy đủ kiến thức nuôi con khoa học, dẫn đến những quan niệm sai lầm trong ăn uống.

Như vậy, tình trạng dinh dưỡng học sinh vùng cao là hệ quả của sự kết hợp giữa nghèo đói, tập quán ăn uống, môi trường thiếu vệ sinh và hạn chế kiến thức nuôi dưỡng. Đây là những yếu tố mà ngành Y tế và các cơ quan liên quan cần tập trung can thiệp đồng bộ để cải thiện.

PV: Để biết một học sinh có được cung cấp đầy đủ dưỡng chất hay không, ngành Y tế và các trường học hiện nay dựa vào những chỉ số, phương pháp đánh giá nào? Việc theo dõi định kỳ nên được thực hiện ra sao để phát hiện sớm nguy cơ thiếu hụt?

Bác sĩ Hoàng Thị Nguyệt: Chúng tôi thường dựa vào nhiều chỉ số khác nhau, phổ biến nhất là các chỉ số nhân trắc học: cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi, cân nặng theo chiều cao, chỉ số khối cơ thể (BMI). So sánh với bảng chuẩn tăng trưởng của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có thể phát hiện sớm tình trạng suy dinh dưỡng.

Ngoài ra, còn có các xét nghiệm cận lâm sàng để đánh giá vi chất, ví dụ xét nghiệm máu phát hiện thiếu máu do thiếu sắt, hoặc xét nghiệm xác định thiếu kẽm, vitamin A… Một số trường hợp cần khai thác khẩu phần ăn hoặc dùng phiếu sàng lọc nguy cơ dinh dưỡng để có thêm thông tin.

Về tần suất, tại các trường học nên đo cân nặng, chiều cao và theo dõi biểu đồ tăng trưởng 6 tháng/lần. Khi phát hiện học sinh có chỉ số bất thường, cần được theo dõi sát hơn, đồng thời tư vấn dinh dưỡng cho gia đình và nhà trường. Việc giám sát định kỳ này rất quan trọng vì giúp phát hiện sớm nguy cơ và can thiệp kịp thời, tránh hậu quả lâu dài.

PV: Với đặc thù vùng cao còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và nguồn thực phẩm, bữa ăn học đường cần được tổ chức như thế nào để vừa đảm bảo đủ chất cho trẻ, vừa phù hợp điều kiện địa phương?

Bác sĩ Hoàng Thị Nguyệt: Đối với học sinh vùng cao, bữa ăn học đường phải vừa đảm bảo dinh dưỡng, vừa phù hợp thực tế. Khẩu phần ăn cần đa dạng, cân đối các nhóm chất: tinh bột, đạm, chất béo, rau củ và trái cây. Nguyên tắc là tận dụng tối đa nguồn thực phẩm sẵn có tại địa phương như gà, cá suối, đậu, trứng, rau rừng, củ quả theo mùa để tiết kiệm và dễ triển khai.

Cần chú trọng món giàu đạm và vi chất như sữa, trứng, đậu phụ, vừng, lạc… để khắc phục tình trạng thiếu năng lượng, thiếu sắt, thiếu kẽm. Nên tổ chức bữa ăn bán trú tại trường để đảm bảo trẻ ăn đủ no, đủ chất, thay vì chỉ ăn tạm cơm nắm hay lương khô.

Dù cơ sở vật chất hạn chế, vẫn có thể áp dụng mô hình bếp ăn tập trung đơn giản, an toàn vệ sinh, do nhà trường phối hợp phụ huynh cùng thực hiện. Quan trọng hơn, bữa ăn học đường không chỉ cung cấp dinh dưỡng, mà còn là cơ hội giáo dục học sinh thói quen ăn uống lành mạnh, vệ sinh an toàn thực phẩm ngay từ nhỏ.

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng học đường: Chìa khóa nâng cao sức khỏe và tầm vóc học sinh- Ảnh 2.

Dinh dưỡng học đường từ lâu đã được coi là chìa khóa quan trọng giúp trẻ em phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn trí tuệ.

PV: Bác sĩ có thể gợi ý cách xây dựng một thực đơn cân đối, dễ áp dụng, tận dụng nguồn thực phẩm địa phương nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu phát triển thể chất và trí tuệ của trẻ?

Bác sĩ Hoàng Thị Nguyệt: Nguyên tắc quan trọng nhất là đảm bảo đủ 4 nhóm thực phẩm: chất bột đường, chất đạm, chất béo, rau củ và hoa quả. Thực đơn cần linh hoạt, tận dụng nguồn thực phẩm địa phương.

Ví dụ: tinh bột từ gạo, ngô, khoai, sắn; đạm từ thịt gà, cá suối, trứng, đậu phụ; chất béo từ dầu lạc, dầu vừng, mỡ động vật ở mức hợp lý; rau củ quả từ rau rừng, bí đỏ, su su, chuối, cam, quýt theo mùa.

Một thực đơn đơn giản, cân đối có thể là: cơm, cá kho, đậu phụ, rau xào, canh bí đỏ; hoặc cơm, thịt (gà, lợn…), trứng rán, rau luộc, hoa quả tráng miệng. Quan trọng là thay đổi món trong tuần, tránh lặp lại để trẻ không chán và được bổ sung đa dạng dưỡng chất.

Ngoài ra, việc bổ sung thêm sữa học đường hoặc sữa đậu nành là giải pháp thiết thực giúp cải thiện tình trạng thiếu canxi, thiếu đạm ở trẻ.

PV: Theo bác sĩ, để duy trì bữa ăn học đường đủ dinh dưỡng cho học sinh dân tộc thiểu số, cần sự phối hợp như thế nào giữa nhà trường, phụ huynh và chính quyền địa phương?

Bác sĩ Hoàng Thị Nguyệt: Để duy trì bữa ăn học đường, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, phụ huynh và chính quyền.

Nhà trường: đóng vai trò trung tâm, xây dựng thực đơn cân đối, tổ chức bếp ăn bán trú an toàn, đồng thời giáo dục học sinh về dinh dưỡng và vệ sinh thực phẩm.

Phụ huynh: cùng đóng góp lương thực, hỗ trợ kinh phí, thay đổi nhận thức và giáo dục con ăn uống lành mạnh, đa dạng thực phẩm.

Chính quyền: hỗ trợ ngân sách, huy động nguồn lực xã hội hóa, kết nối doanh nghiệp, đoàn thể cùng tham gia.

Khi có sự phối hợp đồng bộ, bữa ăn học đường mới duy trì lâu dài, đủ dinh dưỡng và mang lại hiệu quả bền vững.

PV: Cuối cùng, bác sĩ muốn gửi gắm thông điệp gì tới phụ huynh, thầy cô và cộng đồng về vai trò của dinh dưỡng học đường đối với sự phát triển lâu dài của trẻ em vùng cao?

Bác sĩ Hoàng Thị Nguyệt: Ở bất kỳ nơi đâu, đặc biệt là vùng cao, bữa ăn học đường không chỉ là một bữa cơm đơn thuần mà là nền tảng cho sức khỏe, trí tuệ và tương lai của trẻ. Nếu các em được ăn đủ chất, lớn lên khỏe mạnh, học tập tốt, sau này sẽ trở thành nguồn nhân lực vững vàng cho cộng đồng.

Thông điệp tôi muốn gửi gắm là: mỗi phụ huynh, thầy cô và cả xã hội hãy coi dinh dưỡng học đường là sự đầu tư lâu dài. Một bữa ăn đủ chất hôm nay có thể thay đổi tầm vóc, trí tuệ của thế hệ ngày mai. Vì vậy, chúng ta cần chung tay duy trì bữa ăn học đường bền vững, để học sinh vùng cao có cơ hội phát triển công bằng như trẻ em ở bất kỳ nơi nào khác.

PV: Xin cảm ơn bác sĩ!


Nhật Tân
Ý kiến của bạn