Tôi quen vợ chồng nhà thơ Anh Vũ và họa sĩ Nguyễn Thị Phụng tính ra đã hơn mười năm. Không năm nào là tôi không lên Lạng Giang, Bắc Giang cùng với bạn bè, thăm anh chị. Có lần, tôi còn sưu tầm tượng gốm và tượng gỗ của bố con anh. Với tôi, tinh thần của nghệ thuật và thơ ca của Anh Vũ đã trở nên thân thiết và có nhiều chia sẻ mỗi lần gặp gỡ, cho dù có khi chỉ ngồi nhâm nhi chén rượu với cái bánh đa kế ngậy bùi vừng thơm, rồi chia tay...
Chị Phụng kể, Anh Vũ mê gốm như mê gái vậy, suốt ngày nghịch đất như trẻ con, hết nhào nặn, phá bỏ, rồi lại ngồi thừ ra. Rồi vào một đêm, những thớ đất cứ cuộn lên như có phép lạ vậy, Anh Vũ tự nặn gương mặt mình, trong bóng tối, với nụ cười rạng rỡ và thật thà với cái răng sứt, từ hồi còn trẻ. Một chân dung nghệ sĩ tự họa rất có hồn. Đó là một tác phẩm khi đưa triển lãm đã có ngay nhà sưu tầm ôm lấy. Anh Vũ cũng nói, khó mà có những đêm mê sảng như thế và điên lên như vậy để dựng chân dung mình nữa.
Hàng chục năm sau, Anh Vũ vẫn chơi với đất như vậy. Giờ thì đầy vườn, toàn tượng là tượng, đủ kiểu dáng, đủ đề tài: chân dung văn nghệ sĩ, tượng bạn bè và nhiều nhất là tượng bụt, tượng phật. Chính vì vậy, vợ chồng anh đặt tên cho khu sắp đặt của mình là vườn Bụt. Chị Phụng nghĩ chồng mình nặn tượng cho vui, nhưng anh lại có triết lý của mình về tâm linh. Mỗi khi nặn Phật, nặn Bụt là một lần ông tu tâm, tích đức, nghiệm lại cuộc đời, sau những tháng năm vượt qua bao sóng gió để nuôi dạy con cái. Tôi nghĩ, có lẽ chính vì thế mà sáu người con của anh chị đều trưởng thành và có 3 người đã theo nghề của bố mẹ. Hai người con trai đều làm điêu khắc giống cha, còn con gái cả là họa sĩ Vũ Anh Thư theo nghề vẽ của mẹ.
![]() Hai vợ chồng nhà thơ Anh Vũ. |
Nhà thơ Anh Vũ đã có thể cùng vợ đàm đạo cả ngày không hết chuyện, nào là tranh, nào là tượng, nào là thơ hay trường ca, cho dù trong khi nữ sĩ Nguyễn Thị Phụng chỉ mới in được một tập thơ, còn Anh Vũ có đến 10 tập thơ và trường ca. Tập thơ Sen của chị đã được Hội Văn nghệ Bắc Giang và Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam trao giải thưởng (năm 2010). Có lần anh còn cao hứng đọc mấy câu: “Sương buông trăng đã đi rồi - Khêu đèn sách bút lại ngồi vá may - Nghiêng kim xâu chỉ mòn tay - Nghé con ngoan giấc một ngày chưa qua”. Giọng anh nhỏ dần rồi như nghẹn lại, có lẽ những ký ức của một thời cam go và lận đận vì miếng cơm manh áo hiện về trong thơ vợ mình, như một sự ám ảnh cả đời người.
Còn chị Phụng đã tâm sự câu chuyện đến với thơ ca của mình rằng, khi người ta học hội họa thì có thêm một con mắt thứ ba và con mắt của tâm cảm này đưa chị đến với thơ. Lẽ dĩ nhiên, chị được sự khích lệ của chồng và có bị ảnh hưởng tài năng thơ ca của anh. Chính chị đã thuộc không ít tác phẩm của Anh Vũ. Nói rồi chị thong thả đọc những vần thơ đằm thắm của chồng, có những câu mang nặng nỗi niềm của sự sẻ chia trong cuộc sống hạnh phúc: “Những cơn mưa...- Cuốn anh về những đam mê - Những vụng về - Của một thời ...gõ cửa - Một thời ngọn lửa -... bừng cháy trái tim anh”. Đó là những câu thơ của thời màu tím xưa vẫn vẹn nguyên nỗi nhớ, mà tình yêu thủy chung của hai người là vật báu trong một gia đình, không bao giờ mất đi.
Tôi lại phi xe lên sân vườn Bụt như mọi lần vì cổng ngõ nhà anh chẳng bao giờ đóng, nhưng lại thấy họa sĩ Nguyễn Thị Phụng đang hí húi bên một chậu cây, có vẻ bận rộn. Anh Vũ đi vội ra nói, vợ mình đang hái thuốc đi chữa bệnh cho người hàng xóm, nên đừng bận tâm. Nói rồi anh kéo tôi vào bàn trà trong lầu Thi Quán như mọi lần. Phải nói trên bàn trà của Anh Vũ, tôi thích ngắm cái bát điếu nhất chứ không phải vò rượu mà anh thường vật ra rót từng ly mời bạn bè. Anh kể cái bát điếu này cũng gắn bó với gia đình hơn ba mươi năm qua. Hiện đã bị mẻ một miếng nhưng anh vẫn giữ nó vì nó là một nhân chứng gắn kết với bao tao nhân mặc khách từ khắp nơi về đây. Cái điếu cày cũng thế, nó nhỏ gọn để vừa lòng cái bát gỗ nên tiện dụng, ai đến đây cũng làm một điếu say ngất ngư trong lầu Thi Quán này.
Lúc này, anh nheo mắt nhìn tôi rồi bất ngờ hẹn, sang năm con cái trong nhà định tổ chức đám cưới vàng cho vợ chồng anh, tôi phải có mặt. Tôi giật mình, thì ra hạnh phúc gia đình anh đã trọn nửa thế kỷ, bắt đầu từ tình yêu sét đánh thuở nào. Lúc này, chị Phụng vào chào tôi rồi cắp rổ lá thuốc sang nhà hàng xóm. Chị hẹn nhớ đợi chị về mua cho hai anh em cái bánh đa ở ngoài chợ, để uống rượu cho đỡ nhạt miệng. Dáng chị gày gò lụi cụi suốt ngày ở ngoài vườn Bụt. Anh Vũ bật mí, thật ra quanh những bức tượng Phật là những cây thuốc mà vợ anh trồng đã nhiều năm, hái sao cho những người ốm đau quanh vùng quê nhà. Tượng là của chồng. Còn cỏ cây, hoa lá là của vợ. Chúng đã sống bên nhau nửa thế kỷ giống như hạnh phúc của hai vợ chồng. Từ khi về hưu, họa sĩ Nguyễn Thị Phụng chuyên nghiên cứu trị bệnh cho bà con. Chị có những bài thuốc lạ, chữa trị theo cảm quan những gì đã học qua giải phẫu sinh lý trong hội họa nên đa phần là trúng bệnh. Làm phúc như vậy nên chị ham lắm. Bao nhiêu tiền kiếm được chị đều công đức để góp phần xây đền miếu cho làng, mặc dù cuộc sống của vợ chồng rất đạm bạc với đồng lương hưu của hai người.