Sau thất bại thảm hại tại Điện Biên Phủ, cựu Đại tá không quân Pháp Gi - Uyn Roa đã phải thú nhận “Mặc dù nhiều tấn bom đã trút xuống các trục lộ giao thông, nhưng tuyến tiếp tế của Việt Minh không bao giờ dứt. Không phải vì viện trợ của Trung Quốc giúp Việt Minh thắng Na-Va, mà chính là những chiếc xe đạp mang nhãn hiệu Pơ – Giô thồ được từ 200 -300 kg hàng, được điều khiển bởi những dân công ăn không đủ no, ngủ ngay trên nền đất, dưới những tấm vải ni lông. Tướng Na-Va bị đánh bại không phải bởi các phương tiện chiến tranh mà là do trí thông minh và ý chí quyết thắng của đối phương!”
Chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng với 1.062 lượt người, hơn 27 triệu ngày công lực lượng dân công Thanh Hóa đã chi viện hơn 34 tấn thóc cùng số lượng lớn lượng thực, thực phẩm, thuốc men khác phục vụ chiến trường Điện Biên Phủ, góp phần làm nên một chiến thắng “lẫy lừng năm Châu, chấn động địa cầu”.
Đại đội xe Thồ Thanh Hóa ra đời như thế nào?
Chúng tôi có buổi gặp gỡ thật thú vị với cụ Trần Khôi, Chính trị viên của Đội đội Xe thồ C101 Thị trấn Thanh Hóa năm xưa. Mặc dù đã 87 tuổi đời gần 65 năm tuổi Đảng, nhưng những ký ức về một thời oanh liệt trên chặng đường tiếp viện cho Điện Biên Phủ vẫn còn vang vọng như những câu hò trên núi rừng Tây Bắc năm xưa…
Cụ Khôi nhớ lại những ngày ở đội xe thồ
Ông sinh ra và lớn lên tại xã Đông Tiến, thị trấn Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn mới, yêu cầu ngày một cao hơn sức người sức của cung cấp cho chiến trường Tây Bắc, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ. Lúc bấy giờ ông đang là Ủy viên Ủy ban xã Đông Tiến. Để đáp ứng cho yêu cầu cho tình hình mới, cấp trên giao cho thị trấn Thanh Hóa phải tuyển chọn một đại đội làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa, lương thực, thuốc men từ địa phương ra chiến trường Điện Biên Phủ. Đại đội sẽ dùng xe thồ để chở hàng và phải tự lo phương tiện bằng cách huy động nhân dân đóng góp. Ngay sau khi nhận được yêu cầu của cấp trên, Đảng và chính quyền xã Đông Tiến đã cùng với nhân dân tổ chức họp bình bầu người vào đội xe thồ. Người đi được và được đi phải có sức khỏe tốt, có phẩm chất tốt, có tinh thần chính trị vững vàng và có hoàn cảnh gia đình phù hợp. Ai không đi được sẽ đóng góp của cải, vật chất, tiền, vàng để mua xe. Gia đình nào có điều kiện, tiểu thương buôn bán thì đóng góp nhiều hơn các gia đình khác. Số tiền vàng được nhân dân đóng góp sau khi dùng để mua xe cho đội còn lại sẽ thành lập Ban bảo trợ. Ban bảo trợ lấy từ các đoàn thể của địa phương có nhiệm vụ chăm lo đời sống gia đình anh em đội xe thồ để mọi người yên tâm lên đường.
Sau 7 ngày bình bầu và sự hỗ trợ, đóng góp của nhân dân, Đại đội Xe thồ 101 Thanh Hóa đã được hình thành. Đại đội có 8 tiểu đội, mỗi tiểu đội có 15 người. Ông Khôi được bầu làm Chính trị viên kiêm Bí thư đại đội. Ngoài ra còn đại đội trưởng, đại đội phó, hai chiến sĩ công binh đi theo làm nhiệm vụ sữa chữa xe và y tá bảo vệ sức khỏe cho các chiến sĩ trong đại đội. Ngay sau đó, Ban lãnh đạo Đại đội đã cũng nhân dân ra bãi buôn bán xe cũ gần chợ Vườn Hoa của Thị xã Thanh Hóa để tìm mua xe. Loại xe được lựa chọn để trường kỳ trên những cung đường là Xanh- Tê – Chiêng (do Pháp sản xuất) và xe Praha (do Tiệp Khắc) sản xuất, đây là hai loại xe đạp có khung và khỏe mạnh thích hợp với việc thồ hàng hóa.
Xe Thồ ra quân
Ngày 6/2/1954 Đại đội xe Thồ C101 Thị trấn Thanh Hóa làm lễ xuất quân tại phố Bôn, xã Đông Tiến, Thị trấn Thanh Hóa. Lúc này, ông Khôi để lại người vợ trẻ với hai con, đứa con con trai lớn của ông Khôi chỉ mới 4 tuổi, con gái thứ hai mới sinh được khoảng 2 tháng.

Đoàn xe thồ Thanh Hóa chở hàng hóa phục vụ chiến trường Điện Biên Phủ.
Chặng đường đầu tiên, đoàn xe thồ đạp xe lên tới xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, nơi dự trữ lương thực của tỉnh để nhận hàng. Mỗi người sẽ nhận một bao tải gạo nặng 50kg. Sau khi nhận hàng, ngoài tư trang cá nhân, gạo mang theo để ăn, các chiến sĩ buộc tay ngai, cọc thồ, ngụy trang xe và lên đường. Hành trình Đại đội e Thồ đi theo bờ sông Mã lên Cẩm Thủy sang Quan Hóa, Bá Thước. Từ đây đi Phú Lệ - Vạn Mai, lên Mộc Châu qua Ngã ba Cò Nòi vào Sơn La.
Trong tiểu đội cứ 3 người chia thành một nhóm gọi tên là nhóm “tam tam”. Nhóm “tam tam” có nhiệm vụ hỗ trợ lẫn nhau khi lên và xuống dốc. Khi lên dốc, ngoài người giữ tay ngai để điều khiển, một người đi trước dùng dây chảo (được bện bằng vỏ cây rừng) móc vào cổ - phóc xe kéo lên, người còn lại sẽ đi sau đẩy xe qua dốc. Khi xuống dốc, người điều khiển vẫn giữ nguyên vị trí, người sau xe dùng hết sức lực kéo hãm xe, còn người trước xe dùng dép cao su để hãm phanh, nhích dần từng đoạn để xe xuống dốc được an toàn. Cứ như vậy, hết xe này qua dốc lại hỗ trợ xe khác. Với cách này, lần lượt đội quân xe thồ đã hỗ trợ nhau vượt qua muôn ngàn gian khó, qua bao núi cao, đèo sâu đưa hàng nghìn tấn hàng vào chiến trường. Đôi dép cao su vì thế mà mòn vẹt. Một chiếc dép đã dùng để hãm phanh nên ai nấy chân chỉ có một chiếc. Cứ đi một đoạn lại đổi dép sang chân khác để bớt đi cái đau đớn đến túa máu bởi đá tai mèo nơi núi rừng Tây Bắc.
Bước sang đầu tháng 3 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ được bắt đầu bằng trận đánh đầu tiên của quân ta trên đồi Him Lam (13/3). Yêu cầu đội TNPX, dân công phải khẩn trương hơn nữa để cung cấp lương thực, vũ khí và thuốc men kịp cho chiến trường. Các đơn vị phát động phong trào thi đua tăng năng suất, thông qua việc biểu dương khen thưởng những người có thành tích vận chuyển, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc, vì thế trong đơn vị ai cũng hăng hái tăng số lượng hàng hóa trên xe thồ. Từ 50kg ban đầu, ai cũng tăng lên thồ 70kg, có người tăng lên 90 kg, 120 kg, 150kg. Đã có nhiều chiến sĩ lập được kỉ lục như ông Cao Văn Tỵ được mệnh danh là “kiện tướng thồ hàng” với 320kg, hay “Vua xe thồ” Trịnh Ngọc với 345,5kg.
Đến khu vực Suối Rút – Sơn La, nằm ở trung tuyến là chặng đường gian nan, vất vả nhất trong tuyến đường lên Điện Biên. Đoạn đường này toàn đồi trọc với những con dốc dựng đứng, lởm khởm đá tai mèo sắc lẹm. Máy bay liên tục thả bom quần thảo. Ban đêm chúng thả pháo sáng rực cả bầu trời để tìm mục tiêu. Xe lên dốc, xuống dốc hầu như đều bị nổ lốp. Để đảm bao cho chặng đường không bị đứt quãng, các anh chị dân công đã lấy vải cuốn vào chỗ lốp nổ thành nhiều vòng. Có khi không có rẻ thì xé vải áo, quần đùi, chăn chiên để quấn lốp “băng bó” vành xe. Để chắc chắn hơn, các anh chị đã bọc lốp thành hai lần. Dùng một chiếc nổ cắt vành tanh, bọc bên ngoài thêm chiếc lốp khác. Bơm hơi vào gõ vành cứng như đá. Những chiếc xe đạp thồ hàng lại tiếp tục bon bon ra trận. Với tinh thần “hỏng đâu khắc phục đó” những đoàn xe thồ bất chấp mọi gian nan rầm rầm mang lương thực, thuốc men ra phục vụ chiến trường.
Chiếc xe thồ của “Vua xe thồ” Trịnh Ngọc
Chiếc xe thồ của Đại đội xe thồ C101 thị trấn Thanh Hóa.
Ngày vào rừng nghỉ ngơi và tránh bom đạn của giặc, đêm xuống các anh chị lại nối nhau từng đoàn ra trận. Trời tối của núi rừng âm u khiến đường đi càng gian ngan vất vả. Mặc dù xe thồ nào cũng đều có đèn nhưng không hoạt động được do bùn đất bám đầy vành xe, bộ phận phát sinh điện do ma sát không thể tiếp xúc được với vành xe. Nhưng nếu dùng đèn dầu để thắp sáng sẽ dễ bị máy bay địch phát hiện, như thế hậu quả sẽ khôn lường. Để khắc phục điều này, đoàn dân công xe đạp thồ Thanh Hóa đã có sáng kiến dùng ống luồng cắt lấy đoạn gần mắt, dùng ống penixilin làm đèn dầu, dùng vải làm bấc đèn. Rùi một lỗ trên nắp lọ thuốc đủ để nhét miếng dẻ vào làm bấc. Đoạn mắt luồng cắt một ô nhỏ làm nắp, cho lọ thuốc vào thắp sáng, nếu nghe có tiếng máy bay sẽ nhanh chóng đậy nắp che ánh sáng, khi an toàn lại tiếp tục mở ra đi tiếp.
Những bữa ăn cũng trở nên thật gian nan, họ vào rừng hái tàu bay và lá tai chua để luộc ăn qua bữa. Những con sốt rét rừng liên tục hành hạ. Tuy vậy vẫn không làm chậm quãng đường. Cứ hết cơn sốt họ lại tay lái vai đẩy đưa xe qua rừng núi gập ghềnh. Bàn tay hết chai sạn lại phồng rộp, họ đã phải dùng vải thấm thuốc quấn lại để tiếp tục nhiệm vụ.
Dẫu có khó khăn gian khổ đến vậy, dẫu có hiểm nguy luôn thường trực, nhưng họ vẫn không hề nà, không lùi bước. Những câu hò như liều thuốc tinh thần được hát vang khắp núi rừng ngụt ngàn:
“Hò lơ ali hò lơ, hò lơ ali hò lờ…
Đèo cao thì mặc đèo cao
Tinh thần tiếp vận còn cao hơn đèo
“Hò lơ ali hò lơ, hò lơ ali hò lờ…!!!”
Sau ngày Điện Biên Phủ thắng trận, đơn vị ông Khôi được bầu là đơn vị khá nhất, ông được bầu là chính trị viên làm tư tưởng tốt nhất. Năm 1969, ông trở về địa phương làm công tác. Sau đó nghỉ hưu về an dưỡng tuổi già bên người vợ hiền cùng đàn con cháu tại Thành phố Thanh Hóa. Những kỉ niệm của ngày tháng tham gia đội xe thồ vẫn mãi mãi ghi khắc trong tim.
Thanh Thảo