Phần 4: GẶP NGƯỜI KỴ SĨ
Sức khỏe Lubka phục hồi chậm chạp. Để lấy lại sức khỏe sau trận ốm, bác sĩ yêu cầu Lubka phải được chăm sóc tốt và ăn uống đầy đủ, đồng thời khuyên cô hàng ngày uống nửa lít sữa cừu tươi.
Để kiếm sữa cho con gái, ông bố quyết định đi chăn bò thuê tại một trang trại ở làng Hamzali, nơi có nhiều sữa. Và sức khỏe Lubka quả thật bình phục nhanh chóng. Hàng ngày cô cùng Vanga đi lấy nước ở cái giếng nằm ngoài đồng, cách làng khá xa.
Khi Lubka múc mước, Vanga ngồi trên phiến đá bên cạnh. Đôi khi cô ngồi im lặng rất lâu, bất động, không để ý tới bất cứ điều gì. Cô không nghe thấy gì và không phản ứng khi Lubka gọi: “Chị ơi, em múc nước đầy rồi, ta về thôi!” Một lần, Lubka thậm chí hốt hoảng: cô có cảm giác chị gái bất tỉnh và sắp chết. Lặng người vì sợ hãi, cô đứng bên cạnh Vanga. Còn cô chị thì dường như đột ngột thoát khỏi cơn mê và nói: “Em đừng hãi, không có gì đáng sợ hết, đơn giản là chị vừa trò chuyện với một người. Anh ta là kỵ sĩ, anh ta dắt ngựa đến uống nước ở giếng. Chị bảo anh ta đừng trách em không nhường chỗ cho anh ta, vì em không nhìn thấy anh ta. Kỵ sĩ trả lời chị: “Anh không trách, anh có thể đợi. Còn em hãy nhổ những ngọn cỏ có những bông hoa nhỏ màu trắng. Đó là “cỏ ngôi sao”, nó có thể giúp chữa nhiều bệnh”.
Lubka nhìn xung quanh một lượt và chỉ lúc đó cô mới để ý tới đám cỏ mọc rậm rạp mọc cạnh giếng. Hoa của chúng, quả thật, trông giống như những ngôi sao, tỏa sáng trên những cọng nhỏ không có lá. Cho đến tận hôm đó, Lubka vẫn chưa biết loại cỏ này. Cô không bao giờ nhìn thấy loại cỏ giống như vậy ở những chỗ khác, và không ai ở đây biết loại cỏ có cái tên kỳ lạ “cỏ ngôi sao”. Nhưng lúc bấy giờ, sau khi nghe chị gái nói, cô còn sợ hãi hơn, vì hai chị em hoàn toàn đơn độc giữa đồng không mông quạnh. “Vanga nói về người kỵ sĩ nào vậy? Trên thực tế, chị ấy có thể trò chuyện với ai, thậm chí không thấy mở miệng?”
Vào cái năm 1940 nặng nề ấy tất cả mọi người đều dễ bị ốm.
Cuối mùa xuân, ông bố trở về Strumitsa. Một lần, ông bị ngã gãy tay. Vết thương mưng mủ và nhiễm trùng vào cả những vết thương cũ do bị tra tấn hồi đi tù. Suốt cả mùa hè, hai chị em chăm sóc bố. Một dạo, ông đã cảm thấy đỡ hơn, và mọi người bắt đầu hy vọng ông Pande sẽ khỏi bệnh. Chỉ có Lubka đêm nào cũng nghe thấy Vanga khóc nức nở. Cô đoán rằng chị gái biết bố sắp chết.
Đến tháng 9, sức khỏe ông Pande đột nhiên suy sụp. Hai con trai về nhà để thay phiên nhau chăm sóc bố. Nỗi đau khổ xích họ lại với nhau. Nhưng sự túng thiếu kinh niên vẫn như xưa gõ cửa ngôi nhà này.
Ngay từ sáng sớm, hai anh em ra bãi chợ với hy vọng tìm được một việc gì làm. Đôi khi Vasil được thuê làm cửu vạn, còn Tome cọ rửa lò mổ cừu để buổi chiều được trả công bằng một ít thịt đầu thừa đuôi thẹo. Nhưng thường thì họ không kiếm được việc làm, và cả hai tay không trở về nhà.
Lúc bấy giờ đành phải nhịn đói. Một lần, ông bố nhớ tới một người bạn và sai Tome và Lubka đến vay một ít tiền.
Nhưng ông bạn Christo Tudjarov mà hai anh em đến nhờ giúp đỡ không cho vay tiền, chỉ nói rằng sẽ trả công nếu họ hái hộ số bông còn sót lại trên cánh đồng của ông ta.
Ngày hôm sau, từ sáng sớm, hai anh em ra đồng làm việc cật lực cả ngày. Dạo đó đang là tháng mười, trời rất lạnh. Những cơn gió luồn qua làn áo mỏng vào tận da thịt, bàn tay của họ trở nên tím tái vì giá lạnh.
Chiều về, họ xuất hiện trước mặt “người bạn” của bố với một bao tải đầy bông. Ông ta ném vào chân Tome 2 đồng leva, và nói rằng Lubka còn bé không được trả tiền, rồi đóng sầm cánh cửa. Lúc bấy giờ, trên đường phố tuyết bắt đầu rơi nặng hạt. Hai anh em lủi thủi trở về nhà, vừa đi vừa khóc vì đau khổ và tức giận, nước mắt của chúng chảy thấm ướt miếng bánh nướng vừa mua cho người bố ốm đau bằng số tiền kiếm được.
Đầu tháng 11, ông Pande cảm thấy khó lòng qua khỏi. Ông cho gọi các con đến và nói: “Các con ơi, bố sắp qua đời. Các con sẽ ở lại và sống đến ngày mảnh đất của chúng ta lại trở thành đất Bungaria. Tiếc rằng bố không sống đến cái ngày tươi sáng đó. Bố có một nguyện vọng đối với các con: khi những người Bungaria đến đây, hãy gọi một người lính Bungaria nào đó cắm lưỡi lê xuống mộ bố, và bố sẽ hiểu rằng nước Bungaria đã trở về! Các con hãy trở thành những người lao động trung thực và hãy lắng nghe Vanga. Bây giờ chị ấy là chỗ dựa của các con!”
Ngày 8 tháng 11 năm 1940, ông bố qua đời ở tuổi 65.
Suốt cả ngày các con túc trực bên linh cữu bố chờ làm lễ mai táng, nhưng linh mục không đến. Chúng không biết chôn cất bố như thế nào, vì trong nhà không có một xu nào.
Một người hàng xóm từng làm việc ở nhà thờ thiên chúa giáo đến giúp đỡ. Ông kể cho vị linh mục về nỗi bất hạnh của những đứa trẻ mồ côi, rồi nhờ sự can thiệp và bảo lãnh của ông, ông Pande được an táng miễn phí ở nghĩa trang thiên chúa giáo.
Tại lễ tang, khi nhìn thấy những đứa trẻ mồ côi, rách rưới, đói khổ, vị linh mục hiểu rõ chúng lâm vào hoàn cảnh khốn khổ như thế nào. Ông đã bộc lộ lòng từ bi chân chính: cho chúng một ít tiền lấy từ quỹ của nhà thờ.
Lại bắt đầu những ngày nặng nề đầy khổ đau và túng thiếu. Và chỉ có sự chịu đựng vô biên, lòng kiên nhẫn và cá tính mạnh mẽ của Vanga mới giúp mấy anh chị em vượt lên nỗi tuyệt vọng.
Là con cả, Vanga gặp khó khăn nhiều nhất, nhưng bằng tấm gương của mình cô đã cho các em biết cần phải kiên nhẫn như thế nào, không lùi bước trước khó khăn và hy vọng vào những gì tốt đẹp hơn.
Chẳng bao lâu sau khi chôn cất bố, các em trai lại đi tìm việc làm thuê ở các làng. Vanga và Lubka sống với nhau rất lâu.
Một thời gian sau, quân đội Bungaria tiến vào thành phố Strumitsa. Theo lời căn dặn của ông bố, các con trai đã mời một người lính tên là Boris Yanev tới bên mộ bố. Anh ta đã cắm lưỡi lê xuống nấm mộ và nói: “Xin hãy yên nghỉ, một người Bungaria trung thực”.
TÀI NĂNG PHÁT LỘ
Ở Strumitsa người ta thường nói nhiều về khả năng xảy ra chiến tranh. Những người hàng xóm lo lắng thường đến gặp Vanga. Họ trò chuyện tới tận đêm khuya, phá tan bầu không khí yên tĩnh của đường phố.
Trong số những giọng nói khác nhau nghe rõ giọng của Vanga, cô thường kể một cách tường tận về giấc mơ của mình, trong đó cô nhìn thấy những sự kiện sắp xảy ra. Vanga tự tin dự báo rằng chiến tranh sẽ nổ ra sau một năm nữa. Và để bảo vệ thành phố khỏi bị phá hoại, cô nói, cần dâng vật hiến tế lên bàn thờ nhà thờ Mười lăm vị Thánh Tử vì đạo.
Những người hàng xóm cho rằng đơn giản là Vanga phao tin đồn nhảm làm mọi người hoang mang. Cũng có thể có ai đó tin cô, nhưng liệu họ có thể thay đổi được gì trong những sự kiện bi thảm đang đến gần?
Năm 1940 trôi qua trong nỗi lo âu và hoài nghi như vậy. Còn vào đầu năm 1941, một lần vào ban đêm, Lubka nhìn thấy chị gái hốt hoảng đến mức không kìm được sự run rẩy. Vanga hỏi:
- Lubka, em có nhìn thấy một người cưỡi ngựa vừa đi khỏi đây không?
- Người cưỡi ngựa nào nhỉ? – em gái hỏi. - Chị có biết bây giờ là mấy giờ rồi không? Có lẽ chị mơ ngủ đấy.
- Chị không biết, có thể chị mơ ngủ, nhưng đó là một giấc mơ rất kỳ lạ. Chị kể cho em nghe nhé…
… Chàng ta cao lớn, có mái tóc màu hạt dẻ và đẹp trai một cách thánh thiện. Như một chiến binh cổ đại, chàng khoác bộ áo giáp lấp lánh dưới ánh trăng. Con ngựa quất cái đuôi trắng vào hai bên hông và gõ móng xuống đất. Dừng lại bên cổng nhà chúng ta, chàng xuống ngựa và bước vào phòng. Ánh hào quang từ chàng tỏa ra khiến căn phòng sáng lên như ban ngày. Chàng quay về phía chị và cất tiếng: “Chẳng bao lâu nữa, mọi thứ trên thế giới sẽ đảo lộn và nhiều người sẽ mất dấu vết. Em sẽ ngồi ở đây và nói về những người sống và những người chết. Đừng sợ hãi. Anh sẽ ở bên em, sẽ giúp em dự báo cho mọi người!”
Nỗi lo lắng của Vanga chuyển sang Lubka, và cho tới sáng cô không hề chợp mắt.
Đúng như Vanga đã dự báo một năm trước, ngày 6 tháng 4 năm 1941, quân đội Đức tràn qua biên giới Nam Tư.
Nhận được hung tin, dân chúng Strumitsa rời bỏ những ngôi nhà của mình và, không dám liều mạng, họ trốn vào rừng, chui xuống hầm hay kho chứa.
Chỉ riêng Vanga và Lubka vẫn ở lại ngôi nhà của mình.
Vừa sáng sớm tinh mơ, tiếng gầm rú của động cơ ô tô hạng nặng đã phá tan bầu không khí ban mai yên tĩnh. Thậm chí các cánh cửa kính cũng rung lên bởi sự chấn động của mặt đất. Còn đến trưa hai chị em đã nghe thấy những giọng nói xa lạ bằng tiếng nước ngoài và tiếng gót giày gõ cồm cộp. Những vị khách không mời này lùng sục khắp các ngôi nhà để tìm kiếm thức ăn. Trong những ngôi nhà bị dân chúng bỏ lại, chúng bắt hết gia súc, gà, vịt, lấy trứng…
Mặc dù hai chị em đã chuẩn bị tinh thần chờ đợi chuyến “viếng thăm”, nhưng họ vô cùng sợ hãi khi cánh cửa đột ngột mở ra và trên bậu cửa xuất hiện một tên lính Đức. Hắn ta nhìn ngôi nhà nghèo nàn và hiểu rằng chẳng thể kiếm gì được ở đây, nên vội vàng bỏ đi.
Vài ngày sau, những người hàng xóm trở về. Họ có phần yên tâm khi nhìn thấy những ngôi nhà của họ không bị hề hấn gì, ngoài số gia súc bị bắt, tất cả vẫn nguyên vẹn. Nhiều người đến nhà Vanga hỏi thăm tình hình hai chị em.
Những người đến sớm, đứng đối chân bên cánh cửa, không dám bước vào. Những người đến muộn hơn đứng tụ tập ngoài sân.
Có một sự thay đổi bất thường diễn ra với Vanga. Sau mấy tiếng đồng hồ cô thay đổi đến mức không ai nhận ra.
Đây là hình ảnh cô hiện diện trước mặt những người hàng xóm: “Vanga ngồi trong góc căn phòng nhỏ, dưới một ngọn đèn thờ và nói bằng cái giọng oang oang, mạnh mẽ, dứt khoát. Cô rất gầy và tỏ ra hưng phấn. Chiếc áo dài rộng, bạc màu, nhiều miếng vá không che được sự căng thẳng của thân thể cô. Đôi mắt mù lòa của cô trông như hai cái hốc, nhưng gương mặt cô hoàn toàn thay đổi, trở nên phấn khích đến mức tưởng như tỏa sáng. Và cô cứ thế nói mãi. Từ miệng cô phát ra một giọng nói nêu chính xác những địa điểm và sự kiện, tên tuổi những người đàn ông được động viên vào quân đội, những người sẽ sống sót trở về, và những người gặp điều bất hạnh… Hiện tượng này diễn ra nhiều ngày, và cô nói chung không ngủ gần như cả năm. Nhìn bộ dạng Vanga, mọi người muốn quỳ trước cô. Những người đàn ông mà cô nói sẽ trở về, đã trở về đúng thời điểm dự báo.
Tin đồn về tài năng kỳ diệu của Vanga lan nhanh khắp cả thành phố, và từng đoàn người lũ lượt kéo đến gặp cô, họ ngồi chật cả sân.
Đúng lúc đó, vợ người hàng xóm của họ là Milana Partenova đang ngồi ngoài sân bỗng khóc nức nở. Đã lâu bà không nhận được tìn tức gì của chồng và cho rằng bốn đứa con của bà đã trở thành trẻ mồ côi.
Vanga nhìn bà ta và nói: “Đừng khóc, hãy nhanh chân chạy về nhà chuẩn bị bữa tối, vì ông Milan của bà chiều nay sẽ trở về, chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi. Tôi nhìn thấy ông ta. Hiện ông đang trốn trong một cái mương cách thành phố không xa”.
Bà hàng xóm nghĩ rằng Vanga muốn an ủi, động viên bà, nhưng vẫn hy vọng và vội vàng chạy về nhà. Bà nấu bữa tối, chuẩn bị quần áo cho chồng và ngồi chờ. Thế nhưng, vào khoảng nửa đêm, mệt mỏi vì chờ đợi và lo lắng, bà ngủ thiếp đi.
Nhưng một tiếng gõ nhẹ vào cửa sổ đã đánh thức bà dậy và bà nhìn ra ngoài sân. Ở đấy, ông Milan của bà đang đứng, đúng là chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi. Quá kinh ngạc, bà suýt ngất xỉu.
Còn ông Milan cũng thừ người ra, không thể hiểu được vì sao bà vợ biết ông sẽ trở về. Ông trốn khỏi nhà tù và lén lút chui lủi khắp nơi, mãi mới về đến nhà. Ông nói đi nói lại mãi: “Không ai có thể biết điều này, bản thân tôi cũng không biết có quyết định về nhà không. Sợ bị phục kích”.
Còn một dự đoán nữa của Vanga khiến mọi người tin rằng những gì cô nói sẽ thành hiện thực.
Mẹ của Cristo Pyrchanov và cô vợ chưa cưới Pavlina cũng lo lắng về số phận của anh. Ngay từ đầu chiến tranh, Vanga đã nói với bà hàng xóm rằng con trai bà vẫn sống, nhưng còn lâu anh mới trở về. Pavlina không tin lời dự đoán vu vơ như vậy nên đã lấy người khác.
Một năm sau, khi Cristo khỏe mạnh và lành lặn vượt qua bãi chợ, trở về nhà, người đầu tiên gặp anh là cô người yêu cũ. Quá bất ngờ, cô suýt ngất. Lũ trẻ con vội vã chạy đi loan báo với mẹ của Cristo rằng con trai bà đã trở về.
Tin đồn về tài năng tiên tri của Vanga nhanh chóng lan khắp thành phố và các làng lân cận không chỉ gây ra các cuộc tranh luận mà còn những cuộc hành hương của mọi người đến nhà Vanga. Ai cũng muốn biết chút gì đó về số phận những người thân của mình. Vanga không từ chối ai cả. Và một thời gian sau, những lời tiên tri của cô đã trở thành hiện thực.
Vanga còn tỏ ra một thầy thuốc giỏi chữa khỏi các loại bệnh khác nhau, hơn nữa cô chữa bệnh bằng các loại cỏ. Điều thú vị là các bác sĩ giàu kinh nghiệm cũng ngạc nhiên về những kiến thức của cô, bởi cô đã sử dụng những loại cỏ thông thường mà theo họ không có tính chất chữa bệnh. Nhưng dù sao các loại thuốc của cô có tác dụng rất nhanh và hiệu quả.
Về sau tài năng của Vanga càng ngày càng phát triển, trở nên đa dạng, phong phú. Cô dự đoán tương lai cho mọi người, kể cả những người thân, nhưng không sa vào những chi tiết cụ thể, cô giúp đỡ những người bệnh, cho họ những lời khuyên khác nhau.
Một số người sợ những lời tiên tri của cô, buộc tội cô làm trò phù thủy. Số khác mê mẩn cô, tin tưởng cô tuyệt đối. Huyền thoại về Vanga đã ra đời như vậy.
Còn tiếp