Trong đại gia đình sân khấu dân tộc nói chung và nghệ thuật tuồng nói riêng, có lẽ nhà nghiên cứu, soạn giả Mịch Quang là người cao niên nhất còn trụ lại với đời. Và hôm nay, ở tuổi 95, ông vẫn đang làm việc, cống hiến như sức sống của nghệ thuật dân tộc. Người trong nghề yêu quý nhắc đến ông như một thương hiệu bất thành văn : “Cụ Mịch tuồng”.
Ông Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội tặng hoa nhà nghiên cứu, soạn giả tuồng Mịch Quang trong một Hội thảo vừa tổ chức tại Hà Nội. |
Trong đội ngũ nghiên cứu và sáng tác tuồng, Mịch Quang là một trong những người tiên phong và đã có nhiều thành tựu to lớn nên được suy tôn là bậc thầy. GS.NSND.Trần Bảng gọi cụ Mịch Quang là một “Lão tướng tuồng” không chỉ bởi tài đức đầy sức chinh phục của cụ mà còn là vì Mịch Quang là người luôn xông pha đi đầu, tích cực và triệt để nhất trong trận chiến không khoan nhượng bảo vệ nền nghệ thuật truyền thống dân tộc, bắt đầu từ nghệ thuật tuồng. Ngay cả trong nghệ thuật bài chòi, Mịch Quang vẫn là người tích cực bảo vệ bản sắc của bộ môn này bằng quan điểm: Hô là chính, hát là phụ.
Mịch Quang thành công trong nghiên cứu và sáng tác tuồng bởi ông đã sớm có một nền tảng tri thức bền vững, đó là kiến thức văn hoá, sân khấu âm nhạc Đông Tây sâu rộng và hiểu biết về tuồng ngay trên cái nôi tuồng và bài chòi Bình Định. Từ tuổi thiếu niên, Mịch Quang đã đắm mình trên đất tuồng Tuy Phước - quê hương của hậu tổ tuồng Đào Tấn, một miền quê mà ngày xưa ở xã nào, thôn nào cũng diễn tuồng. Cho đến bây giờ, đội tuồng xã Phước An vẫn diễn tuồng truyền thống hay hơn cả các đoàn tuồng chuyên nghiệp.
Bắt đầu sự nghiệp hoạt động nghệ thuật của Mịch Quang không phải là diễn tuồng mà hát tân nhạc do yêu cầu phục vụ bộ đội nhân dân trong kháng chiến chống Pháp vì thời kỳ này nghệ thuật tuồng ở Nam Trung Bộ bị cấm do ngộ nhận đây là sản phẩm của giai cấp phong kiến. Khi làm Trưởng ban Văn hoá - Trung đoàn chủ lực 94, ông là một giọng ca tân nhạc rất được hâm mộ ở vùng kháng chiến Bình Định. Thời làm công chức ở Sài Gòn, Mịch Quang rất thích xem cải lương, đờn ca tài tử và theo học rất nhiều bài bản các bậc thầy của hai bộ môn âm nhạc phương Nam này, vì thế mà ông am hiểu khá sâu âm nhạc cải lương và đã nêu ra lý thuyết Mô hình hoá âm nhạc cải lương có sức thuyết phục.
Nhờ vốn kiến thức âm nhạc hiện đại và sự hiểu biết cải lương mà sau này Mịch Quang vào với tuồng càng dễ dàng. Dĩ nhiên nhạc tuồng có khác với tân nhạc nhưng biết tân nhạc thì càng dễ dàng trong việc tìm hiểu âm nhạc tuồng. Mối liên hệ hữu cơ giữa các vùng miền trong âm nhạc dân tộc Việt Nam rất lâu đời và bền vững. Mịch Quang luôn luôn nắm chắc quy luật liên quan, liên kết này mà nghiên cứu và phát huy suốt cả cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình.
Một điểm khác có tính quyết định cho thành công trong nghiên cứu tuồng của Mịch Quang là môi trường nghệ thuật, tức là Ban Nghiên cứu tuồng, nơi tập trung rất nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng như Phạm Phú Tiết, Hoàng Châu Ký, Hồ Đắc Bích, Lê Ngọc Cầu, Lê Cường, Hồ Lãng... Và gắn bó với những nghệ sĩ tuồng cự phách như Nguyễn Nho Tuý, Nguyễn Lai, Phạm Chương, Văn Phước Khôi, Ngô Thị Liễu, Minh Đức, Đinh Quả, Võ Sỹ Thừa, Bạch Trà, Quang Tốn... Ở đây ông xem nhiều, trao đổi, tranh luận nhiều nên mọi vấn đề lý luận về tuồng ngày càng sáng ra. Trong nghiên cứu, Mịch Quang không bao giờ chịu thụ động, theo nhận định một chiều, mà ông luôn nêu vấn đề, lật ngược vấn đề để có cái mà tranh luận, vì có tranh luận đôi khi nảy lửa mới sáng vấn đề, mới tìm thấy chân lý.
Trong học thuật, Mịch Quang là người có nhiều phát hiện, phát minh hàng đầu. Chính ông là người đặt nền móng cho việc nghiên cứu và phát huy danh nhân Đào Tấn, trong khi người ta cố tình lãng quên một con người “khổng lồ” trong ngành tuồng nói riêng và sân khấu, văn học dân tộc nói chung. Trong lúc giới nghiên cứu tuồng chưa tìm ra nhiều định nghĩa về nghệ thuật biểu diễn tuồng, thì ông nêu ra lý thuyết Tự sự kịch tính trữ tình và Hiện thực tả ý để thăm dò dư luận (cuối những năm 1969). Lúc đó tôi đang là nghiên cứu sinh ở Romania, phải gửi thư về nhờ ông giải thích và ông đã trả lời cho tôi bằng một bức thư dài với những lý giải sâu sắc, giúp tôi hiểu thêm về đặc trưng nghệ thuật tuồng để trình bày với các nhà học thuật châu Âu. Sau đó nhà nghiên cứu Mịch Quang lại nêu lên lý thuyết “Cấu trúc động mở trong âm nhạc truyền thống Việt Nam” đầy sức thuyết phục. Các giáo sư âm nhạc Mỹ: GS.TS. Miller, GS.TS. Nguyễn Thuyết Phong đã đưa lý thuyết này của Mịch Quang thành một thư mục quan trọng của bộ môn dân tộc nhạc học để giảng dạy ở Trường đại học Kent, bang Ohio (Mỹ) cùng nhiều trường đại học khác ở Mỹ và trên thế giới.
Từ năm 1963, Mịch Quang đã cho công bố công trình Tìm hiểu nghệ thuật tuồng với nhiều phát kiến giá trị. Quyển sách đã phát hành tới Mátxcơva giúp chúng tôi có thêm kiến thức về sân khấu dân tộc trong thời gian học tập ở Liên Xô. Đến năm 1987, ông hoàn thành tiếp công trình Đặc trưng nghệ thuật tuồng đi sâu vào phân tích những đặc trưng nghệ thuật tuồng về mặt hình thức. Công trình này được giới nghiên cứu sân khấu đánh giá rất cao. Cả hai công trình này dù đã tái bản vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu của những người làm tuồng và hâm mộ tuồng. Đầu năm 2000, ông cho xuất bản công trình Kinh dịch và nghệ thuật truyền thống. Đây là một bước đột phá nhiều ý nghĩa của Mịch Quang khi tìm đến cơ sở triết học hình thành nên những đặc tính thẩm mỹ độc đáo của nghệ thuật truyền thống dân tộc. Đến công trình Khơi nguồn mỹ học dân tộc, Mịch Quang lại bước đầu nêu ra những phạm trù riêng biệt của Mỹ học truyền thống dân tộc như “cái hùng”, “cái hậu”, cái nhu”.
Nhà nghiên cứu Mịch Quang đã góp phần quan trọng xây dựng nền móng của nghệ thuật học, mỹ học dân tộc bằng các công trình khoa học uyên bác, đầy sáng tạo của mình. Cho đến nay có thể nói, nhiều phát hiện và tổng kết về nghệ thuật truyền thống dân tộc của Mịch Quang đã trở thành tài sản chung của giới nghệ thuật học dân tộc như Hiện thực tả ý, Phương pháp mô hình hoá, Sân khấu tổng thể tích hợp, Tự sự kịch kính trữ tình, Cấu trúc động mở… Nhiều người đã sử dụng nó hàng chục năm nay mà không biết đó chính là những luận điểm do Mịch Quang phát hiện, tổng kết.
Mịch Quang không chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu quan trọng mà còn có nhiều sáng tác thành công về đề tài lịch sử như Phất cờ nương tử, Vua Hùng kén rể, Quang Trung, Trần Hưng Đạo... đặc biệt vở tuồng Thanh gươm hát bội của ông đã được tặng Huy chương Vàng tại Hội diễn sân khấu tuồng và dân ca kịch toàn quốc năm 1990 và là vở tuồng có sức sống lâu bền trong công chúng miền Trung qua nhiều thập kỷ. Vở Vua Hùng kén rể với chủ đề lựa chọn người thực tài, thiện tâm để giao trọng trách, cũng là một sáng tác rất có giá trị, được rất nhiều đoàn cải lương, tuồng, múa rối cả nước dàn dựng. Kịch bản kịch thơ của sáng tác này từng được dàn dựng trên sân khấu truyền thanh của Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam và được phát đi phát lại trong nhiều năm. Ngoài ra ông còn có một vở khác về Đào Tấn là Giấc mộng hồ hoa và Bà mẹ làng Sen viết về thời niên thiếu của Bác Hồ. Ông cũng là người đầu tiên thành công về đề tài hiện đại ở Nhà hát Tuồng Bắc với vở tuồng Má Tám, mở lối cho nhà hát này tiếp tục thành công về đề tài hiện đại suốt trong những năm 70, 80 của thế kỷ 20.
Mịch Quang có được những thành công trên cả hai lĩnh vực nghiên cứu và sáng tác, ngoài năng khiếu bẩm sinh và môi trường nghệ thuật, còn nhờ tinh thần khiêm tốn học tập không ngừng. Dù đã được coi là bậc thầy, là “lão tướng”, được các tên tuổi như GS.TS. Trần Văn Khê, GS. Trần Bảng, GS. Hoàng Châu Ký, GS.TS. Nguyễn Thuyết Phong, GS.VS. Hồ Sĩ Vịnh, PGS. Tất Thắng... kính nể, suy tôn, nhưng Mịch Quang vẫn kiên trì học tập trên sách báo, học ngay ở các cuộc toạ đàm, hội thảo, thậm chí ông còn bày ra những cuộc tranh luận tay đôi, tay ba để mà học, mà làm rõ những vấn đề học thuật. 10 năm trước, ông tự phong cho mình danh hiệu “Lão học sinh” trong một bài thơ làm xúc động lòng người:
95 năm, gần tròn một thế kỷ, cụ Mịch Quang sống ngay thẳng giản dị, lấy chữ tâm làm trọng, không màng danh lợi, lặng lẽ, bền bỉ làm việc một cách kiên định theo lời dạy của Bác Hồ trong một dịp Bác vào thăm Khu văn công Mai Dịch và trò chuyện với các nhà nghiên cứu sân khấu dân tộc: “Nghệ thuật Việt Nam hay lắm, các cháu ráng nghiên cứu. Đừng để những tiêu chuẩn này nọ của nghệ thuật phương Tây trói buộc khiến ta không thấy hết cái hay cái đẹp của nghệ thuật dân tộc ta”.
Thời gian đã giúp chúng ta có điều kiện đánh giá đúng hơn tầm vóc của nhà nghiên cứu, học giả, soạn giả Mịch Quang. Theo chúng tôi, Mịch Quang là người học trò trung thành và xuất sắc của Bác Hồ trong lĩnh vực nghệ thuật dân tộc. Chính nhờ việc kiên trì theo đuổi học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong suốt hơn 60 năm qua, nhà nghiên cứu, soạn giả Mịch Quang đã đạt được những thành tựu sáng tạo đáng tự hào, góp phần quan trọng xây dựng nền móng vững chắc của nghệ thuật học dân tộc, trở thành một lão tướng uy phong và rất được yêu mến, tin cậy, một cây đại thụ toả bóng xanh mát trên con đường trường chinh bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc của nhiều thế hệ người Việt Nam…
GS. HOÀNG CHƯƠNG