Đốt rác thải không có khói độc
GS.TS Trịnh Văn Tuyên, Viện Khoa học công nghệ Năng lượng và Môi trường cho biết, hiện nay, công tác xử lý chất thải y tế vẫn đang là vấn đề nan giải, việc xử lý còn nhiều khó khăn bất cập và cần được quan tâm. Chất thải từ các hoạt động khám chữa bệnh, xét nghiệm, phẫu thuật, nghiên cứu,… chứa những yếu tố nguy hại sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người và môi trường nếu không được thu gom, phân loại và xử lý đúng cách.
Viện Khoa học công nghệ Năng lượng và Môi trường đã nghiên cứu, chế tạo thành công và đưa Lò đốt chất thải rắn nguy hại VHI-18B vào sử dụng trong nhiều lĩnh vực, trọng tâm là lĩnh vực y tế.

Chất thải y tế cần được xử lý bằng công nghệ tiên tiến và hiện đại.
Hệ thống xử lý chất thải rắn y tế VHI-18B được thiết kế trên cơ sở áp dụng nguyên lý đốt đa vùng hiện đang được sử dụng ở các nước tiên tiến trên thế giới. Hệ thống này được thiết kế gồm hai buồng đốt; sơ cấp và thứ cấp, tổ hợp Xyclon xử lý khí thải bằng phương pháp hấp thụ ướt.
Chất thải rắn y tế được đưa vào buồng đốt sơ cấp để đốt và duy trì ở nhiệt độ 500°C-800°C. Không khí được cấp liên tục cho quá trình đốt thiêu hủy rác. Khói từ buồng đốt sơ cấp (sản phẩm cháy chưa hoàn toàn, chứa nhiều bụi và các chất độc hại) được hòa trộn với không khí theo nguyên lý vòng xoáy và được đưa vào buồng đốt thứ cấp.
Tại buồng đốt thứ cấp, các sản phẩm cháy chưa hoàn toàn (chứa cả dioxin và furan) tiếp tục được phân hủy và đốt cháy ở nhiệt độ cao (900°C – 1200°C) với thời gian lưu cháy đủ lớn (2 giây). Khói từ buồng đốt thứ cấp được dẫn qua hệ thống giảm nhiệt và được xử lý bằng phương pháp hấp thụ với dung dịch kiềm, đảm bảo khí thải đạt quy chuẩn QCVN 02:2012/BTNMT về lò đốt chất thải rắn y tế.
"Ưu điểm đặc trưng của lò đốt chất thải rắn VHI-18B là đốt đa vùng, đáp ứng yêu cầu nhiệt độ cao, xáo trộn mạnh, thời gian lưu cháy dài vì vậy hiệu suất đốt cháy rác thải, thiêu hủy dioxin và furan cao. Thành lò được xây bằng gạch Sa mốt A, cách nhiệt bằng bông khoáng chịu nhiệt cao và vỏ lò làm bằng vật liệu inox SUS 304 nên khi lò đang đốt ở nhiệt độ cao nhưng kiểm tra bên ngoài vỏ lò vẫn mát. Luôn duy trì áp suất âm trong lò nên khi lò đang hoạt động vẫn có thể mở cửa nạp mẻ rác mới", GS.TS Trịnh Văn Tuyên chia sẻ.
Hệ thống xử lý khí thải của lò kết hợp với trao đổi nhiệt để loại trừ triệt để bụi, kim loại nặng và các khí độc hại (NO, SO, HCI, HF…), làm lạnh nhanh khí thải xuống dưới 200 độ C tránh tái sinh dioxin, đồng thời nung nóng không khí cấp cho lò, nhằm giảm thiểu việc tiêu hao nhiên liệu. Khói thải ra sau khi xử lý không màu, không mùi, không gây ô nhiễm môi trường, đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 02:2012/BTNMT về khí thải lò đốt chất thải rắn y tế (đã được các cơ quan chức năng kiểm định). Lượng tro trơ còn lại rất ít, được mang đi chôn lấp hoặc đổ thải như chất thải rắn thông thường.
GS.TS Trịnh Văn Tuyên cho biết, hệ thống có chế độ điều khiển tự động chu kỳ đốt, nhiệt độ và các thiết bị kèm theo nên việc vận hành tương đối đơn giản, an toàn. Có nhiều loại lò đốt công suất phù hợp với lượng chất thải của từng cơ sở bệnh viện.
Có chế độ làm việc hiệu quả nên tiết kiệm nhiên liệu, do vậy chi phí xử lý thấp. So với các thiết bị ngoại nhập, lò đốt VHI-18B có giá thành thiết bị thấp hơn (chỉ bằng một phần ba hoặc 50% so giá nhập khẩu). Sản phẩm được bảo hành miễn phí 12 tháng sau khi chuyển giao, bảo trì lâu dài theo yêu cầu.
Lò đốt chất thải rắn nguy hại VHI-18B được ứng dụng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, thích hợp cho việc xử lý chất thải rắn y tế; Chất thải rắn của các trung tâm nghiên cứu và điều trị thú y; Chất thải rắn độc hại của các nhà máy, xí nghiệp và khu công nghiệp (bã thải sơn, mực in, cao su, da giầy…).
Xử lý chất thải y tế với giá thành thấp
Hiện nay, lò đốt VHI-18B đã được chuyển giao và lắp đặt cho hơn 50 cơ sở, bệnh viện các tuyến ở trong và ngoài nước như bệnh viện của các tỉnh: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hưng Yên, Phú Thọ, Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Kon Tum, Ninh Thuận, Đồng Tháp, lò đốt chất thải rắn công nghiệp Nhà máy in tiền quốc gia, lò thiêu gia cầm Công ty Cổ phần Japfa Comfeed Việt Nam, lò đốt chất thải rắn y tế bệnh viện Hữu nghị Luang Prabang và khu bãi thải Vientiane tại Lào.
Viện Khoa học công nghệ Năng lượng và Môi trường đã hoàn toàn làm chủ công nghệ Lò đốt chất thải rắn y tế, tính nội địa hóa cao, chi phí thấp hơn nhập ngoại. Thời gian chế tạo và lắp đặt chỉ trong vòng 1 tháng khi có đơn hàng.
GS.TS Trịnh Văn Tuyên cùng cộng sự đã phát triển hợp tác với nhiều nhóm nghiên cứu lớn quốc tế như Nga, Hàn Quốc và đặc biệt là Nhật Bản để học hỏi và nắm bắt công nghệ mới. Từ những dự án JICA ban đầu, thông qua các dự án NEDO liên quan đến xử lý ô nhiễm môi trường đã tạo ra mạng lưới khoa học quốc tế chặt chẽ, vững mạnh. Vì vậy, việc đầu tư trang thiết bị cũng được phát triển.
Trong nước, ông và đồng nghiệp là thành viên tích cực của mạng lưới Diễn đàn Quốc tế Công nghệ và Quản lý xanh (International Forum on Green Technology and Management - IFGTM), một diễn đàn khoa học thường niên của Mạng lưới Nghiên cứu Quản lý và Công nghệ xanh với gần 20 thành viên là các đơn vị nghiên cứu, đào tạo hàng đầu về môi trường của Việt Nam và một số nước trong khu vực.
GS Tuyên trăn trở, nhiễm môi trường là vấn đề thực tế luôn được quan tâm trên phạm vi toàn cầu. Với mục tiêu tạo ra nền kinh tế xanh, nền kinh tế tuần hoàn hay "Net Zero" (mục tiêu nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là giảm sự nóng lên toàn cầu) đặt ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho lĩnh vực công nghệ môi trường ở Việt Nam.
Hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường tồn tại ở nhiều làng nghề, vùng nông thôn, các khu công nghiệp vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Việc hợp tác nghiên cứu với các đối tác là các đơn vị nghiên cứu, các công ty môi trường trong và ngoài nước cần được thúc đẩy hơn nữa để tạo ra các công nghệ xử lý môi trường mới hiệu quả cao.
Trong tương lai, GS. Tuyên và cộng sự sẽ tiếp tục mở rộng nghiên cứu với nhiều đối tượng môi trường hơn như các vấn đề về nước rỉ rác, nước thải khu đô thị và khu công nghiệp. Thêm vào đó, nghiên cứu phương pháp, kỹ thuật thu hồi các thành phần có giá trị trong nước thải, khí thải để ứng dụng vào thực tế mang lại hiệu quả kinh tế, giảm chi phí xử lý môi trường cũng được ông quan tâm. Giáo sư cho rằng: Việc nghiên cứu công nghệ xử lý nước thải tuần hoàn, triệt để (gần như 100%) tại các cơ sở sản xuất và tiến tới mô hình không phát sinh nước thải ra môi trường là mục tiêu nghiên cứu mà ông sẽ tiếp tục theo đuổi.

