Công nghệ sinh học trong điều trị bệnh khớp

14-01-2013 21:17 | Thông tin dược học
google news

Các thuốc sinh học là bước tiến bộ quan trọng đã mở ra kỷ nguyên mới với cuộc “cách mạng” trong điều trị các bệnh lý viêm khớp hệ thống. Trị liệu này đã mở ra hy vọng lui bệnh và cải thiện diễn tiến bệnh, ngặn chặn diễn tiến tới tàn phế cho nhiều bệnh nhân nặng mà các thuốc điều trị cổ điển không còn tác dụng.

Các thuốc sinh học là bước tiến bộ quan trọng đã mở ra kỷ nguyên mới với cuộc “cách mạng” trong điều trị các bệnh lý viêm khớp hệ thống. Trị liệu này đã mở ra hy vọng lui bệnh và cải thiện diễn tiến bệnh, ngặn chặn diễn tiến tới tàn phế cho nhiều bệnh nhân nặng mà các thuốc điều trị cổ điển không còn tác dụng.

Hiện nay, các thuốc sinh học đang mang lại lợi ích điều trị đáng kể và được coi là những tác nhân điều trị mạnh hay cuộc cách mạng trong điều trị nhiều nhóm bệnh lý (tự miễn, nhiễm trùng, ung thư…), đặc biệt là các bệnh lý viêm khớp hệ thống thuộc chuyên khoa thấp khớp học. Các thuốc sinh học gồm:

Các thuốc ức chế cytokines

Thuốc ức chế yếu tố hoại tử u nhóm α  (TNFα)

TNFα là một cytokine viêm đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh của các bệnh viêm khớp hệ thống. Vai trò của TNFα được chứng minh thông qua nhiều bằng chứng thu được từ các nghiên cứu khác nhau trên thực nghiệm, thử nghiệm lâm sàng và thực tế điều trị. Các thuốc này được chấp nhận điều trị cho viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vô căn ở trẻ em, viêm khớp vảy nến và vảy nến mảng.

Công nghệ sinh học trong điều trị bệnh khớp 1
Các thuốc sinh học mang lại nhiều lợi ích vượt trội trong điều trị bệnh khớp.

Thuốc ức chế interleukin 6:

Interleukin 6 (IL 6) là một cytokine “đa chức năng”. Đây là một cytokine có vai trò quan trọng trong quá trình viêm mạn tính và đáp ứng miễn dịch, vừa kích thích hoạt động của tế bào lympho B trong việc sản xuất các tự kháng thể, vừa tham gia vào quá trình biệt hóa của các tế bào lympho T. Tocilizumab được FDA chấp nhận để điều trị viêm khớp dạng thấp nặng và “kháng trị” từ đầu năm 2010.

Thuốc ức chế interleukin 1:

Anakinra là một kháng thể đơn dòng kháng lại thụ thể của IL 1, có tác dụng chống viêm và làm giảm tiến triển của tổn thương xương và sụn khớp. Được sử dụng trong viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vô căn thiếu niên thể khới phát toàn thể, bệnh Still ở người lớn.

Một số thuốc ức chế cytokines khác: Một số thuốc đang được nghiên cứu điều trị viêm khớp dạng thấp (VKDT), vảy nến, viêm ruột, xơ cứng rải rác. Thuốc kiểm soát hệ thống miễn dịch; thuốc điều trị lupus ban đỏ hệ thống, viêm đa cơ, bệnh Crohn’s… cũng đang được nghiên cứu từ nhóm cytokines.

Thuốc ức chế tế bào lympho T

Vai trò của tế bào lympho T trong bệnh sinh VKDT đã được nghiên cứu từ rất lâu, đặc biệt là trên các mô hình gây viêm khớp thực nghiệm với các biểu hiện tương tự như VKDT. Từ năm 2005, Abatacept đã được FDA cho phép sử dụng để điều trị viêm khớp dạng thấp nặng và “kháng trị”, đặc biệt thuốc còn là giải pháp để chọn lựa khi bệnh nhân không đáp ứng với các thuốc kháng TNF α.

Thuốc ức chế tế bào lympho B

Tế bào lympho B là một bộ phận của hệ thống đáp ứng miễn dịch, có vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của viêm khớp dạng thấp và nhiều bệnh lý tự miễn khác. Chất ức chế tế bào B (rituximab), có tác dụng gây độc cho tế bào B (thúc đẩy quá trình chết theo chương trình của tế bào B), làm giảm số lượng tế bào B, tuy nhiên, thuốc không ảnh hưởng tới tế bào mầm (ở tủy xương), tế bào tiền lympho B và tương bào (plamocyte).

Từ năm 2006, rituximab được coi là liệu pháp sinh học với viêm khớp dạng thấp và một số bệnh lý tự miễn khác. Thuốc được chỉ định cho các bệnh không đáp ứng với điều trị bằng chất ức chế TNF α. Từ năm 2010, rituximab được coi là tác nhân sinh học được chọn lựa đầu tiên cho bệnh viêm khớp dạng thấp và các bệnh hệ thống liên quan.

Sử dụng các tác nhân sinh học như thế nào?

Các tác nhân sinh học được chỉ định khi: không đáp ứng với các điều trị cổ điển, kể cả đơn trị liệu hoặc phối hợp trong thời gian từ 6 tháng trở lên; bệnh tiến triển nặng (dựa vào các chỉ số về hoạt tính của bệnh); có các yếu tố tiên lượng xấu: viêm nhiều khớp, tổn thương “ăn mòn” sớm, kháng thể  RF và anti CCP tăng cao, VS và/hoặc CRP tăng cao, lớn tuổi, hút thuốc, cơ địa (HLA). 

Từ 3 năm gần đây, một số sản phẩm sinh học quan trọng đã có mặt tại Việt Nam, mang lại lợi ích thực sự cho một số bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vảy nến nặng, không đáp ứng với các trị liệu cổ điển, nâng cao hiệu quả điều trị và thay đổi tiên lượng nặng nề của bệnh.

Tuy nhiên, để tiếp cận và có được những lợi ích thực sự, chúng ta còn phải đương đầu với nhiều thách thức và rào cản: Thách thức lớn nhất là việc chẩn đoán, điều trị, theo dõi và quản lý nhóm bệnh lý viêm khớp hệ thống ở nước ta còn nhiều bất cập, các bác sĩ chuyên khoa và màng lưới chuyên khoa thấp khớp học ở các tuyến còn rất thiếu. Hơn nữa, chi phí cho điều trị này rất cao so với thu nhập của đại đa số người bệnh. Vấn đề nhận thức của người dân còn kém, nhiều người chưa hiểu được ảnh hưởng nặng nề của bệnh cũng như lợi ích của việc điều trị và cơ hội để điều trị đạt hiệu quả cao nhất.

Để vượt qua những thách thức và rào cản trên, chúng ta cần có những thay đổi lớn trong nhận thức; đào tạo và tổ chức màng lưới chuyên khoa và cả thay đổi chính sách và ngân sách cho y tế.

PGS.TS.BS. Lê Anh Thư



Ý kiến của bạn