Theo quan niệm của người Nùng Dín ở Tùng Lâu (Mường Khương - Lào Cai), ngoài ý nghĩa mang tính dân tộc, bộ trang phục cô dâu trong ngày cưới còn được người Nùng coi là của hồi môn quý giá nhất của bất kỳ người con gái nào khi đi lấy chồng, họ có thể đem mua bán, trao đổi hoặc làm vốn trang trải khi gia đình gặp khó khăn, sinh cơ lập nghiệp...
Trang phục cô dâu truyền thống của người Nùng Dín. Ảnh: TL |
Bộ trang phục cô dâu của người Nùng Dín ở Tùng Lâu được làm rất kỳ công phức tạp. Một bộ trang phục hoàn thiện phải đi kèm nhiều thứ như áo, váy, hài; các đồ trang sức đắt tiền như vòng cổ, vòng tay, hoa tai, trâm cài; các hạt cườm và cúc áo bằng bạc đính liền khăn và áo. Nguyên liệu may trang phục chủ yếu bằng vải mộc nhuộm chàm được miết bóng trên mặt bằng đá xanh. Trên các viền cổ áo, ống tay, đầu khăn và mặt hài được thêu hoa văn tuy không sặc sỡ nhưng có những nét đẹp rất khác lạ, trang trí khá phong phú nhiều loại hoa văn dây leo, vân mây, con bướm, lá cây dương xỉ, cây thông. Màu sắc của những hoa văn, họa tiết này thường là màu hồng, màu tím, màu xanh đan xen vào nhau hài hòa và tinh xảo. Hài cô dâu được làm theo kiểu mũi cong hình thuyền giống như hài thêu của các bậc vương giả thời phong kiến. Trên cổ áo và khăn đội đầu được đính hạt cườm bằng bạc theo hình núi non và sóng nước. Cúc áo cũng được làm bằng bạc trắng gồm hai loại khác nhau là loại đơn và loại kép. Loại kép thì có cúc to hơn có hình vuông đính các chùm trang sức giống hoa hành, hình con cá. Trang sức gồm vòng cổ (xà tích), vòng tay, trâm cài đầu và khuyên tai, tất cả đều được làm từ bạc trắng hoa xòe và được chạm trổ công phu.
Mang đồ dẫn cưới sang nhà gái. |
Ngoài ý nghĩa là của hồi môn quý giá, bộ trang phục cô dâu còn là một trong những đồ thách cưới mà nhà gái Nùng Dín nào cũng đòi hỏi. Bên cạnh đó, bộ trang phục còn có ý nghĩa lịch sử to lớn gắn với cuộc đời của người phụ nữ Nùng Dín. Truyện cổ dân gian kể rằng, từ thời xa xưa con gái Nùng Dín không chỉ thông minh, khôn khéo mà còn biết bay nhảy như các loại chim muông. Song hiềm một nỗi, cuộc sống lao động ở vùng rừng núi với biết bao khó khăn nghèo túng nên họ đã phải đi làm thuê, làm mướn cho nhà vua nên rất cơ cực. Một hôm, nhân khi vua đi vắng, một cô bèn bay trốn đi nơi khác tìm cuộc sống tự do, nhưng không may bị nhà vua bắt được lôi về và hành hạ rất nhục nhã. Ngoài thời gian đi làm các công việc đồng áng, những lúc ở nhà, vua lại sai quân lính đánh và buộc chặt đôi cánh tay biết bay của cô gái và chèn cối xay lên để cô không thể bay được, không những thế nhà vua còn cho quân lính đem xích sắt tròng cổ, dùng khóa sắt khóa hai tay lại không cho cựa quậy, hai vành tai của cô gái còn bị vua cho xuyên thủng để cô biết điều mà nghe vua sai bảo, yên phận sống kiếp sống của kẻ nghèo hèn. Thậm tệ và tàn nhẫn hơn, nhà vua còn sai quân lính đóng hai chiếc đinh ốp trên đỉnh đầu khiến cho cô gái bị tâm thần và cho ghi một bản tội lỗi dán lên ngực cô gái để bêu riếu khắp thiên hạ. Sau này khi ông vua đó mất đi, con gái Nùng Dín mới được tự do làm ăn sinh sống xây dựng cuộc sống hạnh phúc của mình. Từ đó người Nùng Dín mới búi váy ở mông tựa như đuôi chim (tiếng Nùng gọi là pphẳn paiw), làm hai chiếc trâm đinh bằng bạc cài lên đỉnh đầu (gọi là cù tiêngw), hai khuyên tai tựa hình con chim có núm hình bông hoa hành (gọi là dác tsuw đoọj tsoongw), vòng cổ tựa như dây xích (gọi là slaiw hô khủng tsử), hai vòng tay bằng bạc (gọi là còng tay) và hàng cúc bạc tám cái gắn xúng xính trên ngực (gọi là náu pphái) để nhớ tới cuộc sống cơ cực của mình ngày xưa. (1)
Kể từ dạo đó, mỗi khi người con gái trưởng thành, xuất giá làm dâu, nhà gái bao giờ cũng thách cưới bộ trang phục cổ truyền (thảo slư slin nhinh) để mặc trong đám cưới hay mỗi khi đi trảy hội. Như vậy, có thể thấy rằng bộ trang phục cô dâu của người Nùng Dín ở Tùng Lâu còn là một nét văn hóa mang nhiều ý nghĩa nhân văn không chỉ có giá trị giáo dục, tuyên truyền về lịch sử trang phục của phụ nữ người Nùng cho con cháu mà còn góp phần bảo tồn di sản văn hóa dân tộc trước những đổi thay của cuộc sống đương đại.
(1) Thông tin bài viết được tham khảo từ tài liệu của nhà nghiên cứu Vàng Thung Chúng, lưu tại Viện Dân tộc học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Thời Trân