(Tiếp theo kỳ trước)
Trụy tim mạch, suy tim
Xác định tình trạng trụy tim mạch, suy tim phải căn cứ vào các dấu hiệu như da lạnh, ẩm ướt; mạch nhanh, nhỏ; huyết áp tụt thấp hay tăng cao; bệnh cảnh lâm sàng thường gặp là sốc do chảy máu hoặc nhiễm khuẩn, tăng huyết áp, tiền sản giật nặng... Xác định nguyên nhân với hai nguyên nhân thường gặp là trụy tim mạch toàn thân do mất một lượng máu lớn gây rối loạn hệ thống tuần hoàn và suy tim do từng bộ phận riêng biệt bị tắc mạch vì cục máu đông. Trụy mạch do tim là trụy mạch ảnh hưởng đến các mạch máu của tim và thường gây tử vong được gọi là suy tuần hoàn cấp. Trụy mạch ngoại vi gây ảnh hưởng tới các động mạch, tĩnh mạch làm hoại tử, suy cơ quan hay bị những biến chứng nặng khác còn được gọi là sốc hay suy tuần hoàn ngoại vi. Các nguyên nhân thường gặp do mất máu cấp tính, huyết khối vì rối loạn tăng đông máu, sốt xuất huyết, sốc, bệnh tim, dùng thuốc ảnh hưởng tới huyết áp, hội chứng động mạch mạc treo tràng trên.
Xử trí ban đầu cần phải lưu ý đến việc đánh giá sản phụ có thông đường thở không (A: Airways)?. Có thông khí phế nang thích đáng không (B: Breathing)?. Có tuần hoàn não tối thiểu để bảo đảm oxy máu đủ và chuyển vận oxy, glucose lên não không (C: Circulation)?. Vì vậy thứ tự các chức năng sống cần được ưu tiên đánh giá khi tiếp nhận một sản phụ cấp cứu là chức năng hô hấp; chức năng tuần hoàn; chức năng thần kinh; cân bằng nước-điện giải, toan-kiềm; chức năng cầm máu, đông máu. Đồng thời phải hội chẩn, phối hợp với các chuyên khoa khác nếu muốn loại trừ các nguyên nhân sản khoa.
Chảy máu âm đạo
Xác định chảy máu âm đạo khi có biểu hiện máu chảy ra từ âm hộ, âm đạo và tử cung; có tình trạng thương tổn tử cung, các vết rách, máu tụ; tình trạng bệnh lý của bàng quang. Xác định nguyên nhân gây nên chảy máu âm đạo với các bệnh cảnh lâm sàng thường gặp như: sảy thai, thai trứng, thai ngoài tử cung; nhau tiền đạo, nhau bong non, vỡ tử cung; đờ tử cung, rách do chấn thương đường sinh dục, máu tụ đường sinh dục; sót nhau, lộn tử cung, rối loạn đông máu...
Xử trí ban đầu các trường hợp sản phụ bị chảy máu âm đạo là phải hồi sức chống sốc do giảm thể tích máu; can thiệp điều trị theo nguyên nhân của từng trường hợp bệnh lý; đồng thời phải lưu ý việc chuyển sản phụ lên tuyến trên khi vượt khả năng chuyên môn cho phép.
Hôn mê và co giật
Xác định tình trạng co giật khi sản phụ trước đó có biểu hiện triệu chứng lo âu, cảm nhận thấy một mùi hay vị gì khác lạ, kỳ quặc hoặc một vài hiện tượng vận động nhỏ như giật cơ trước lúc xảy ra co giật; đau đầu, thay đổi ý thức từ lú lẫn đến không đáp ứng; có hành động vô thức như bặm môi, nhai, đi đứng không mục đích; co thắt cơ, tăng trương lực gây nghiến răng và cứng trong tư thế duỗi ở giai đoạn tăng trương lực, tiếp theo sau là hiện tượng giật cơ theo nhịp ở giai đoạn co giật; mất kiểm soát tư thế, cắn lưỡi, tiểu tiện không tự chủ; đồng thời có các triệu chứng thần kinh thực vật như nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, giãn đồng tử; sau cơn co giật là giai đoạn lú lẫn hay không đáp ứng, kéo dài từ vài phút đến vài giờ. Xác định nguyên nhân căn cứ vào các bệnh cảnh lâm sàng thường gặp như: sản giật, mắc bệnh sốt rét, bị động kinh, mắc bệnh uốn ván, bị viêm não - màng não.
Xử trí ban đầu tùy theo từng trường hợp bệnh lý. Nếu bị sản giật phải điều trị chống co giật với magnesium sulfate và thuốc an thần phù hợp theo chỉ định. Nếu do các nguyên nhân khác phải tổ chức hội chẩn để xác định bệnh rồi chuyển sản phụ đến điều trị ở khoa thích hợp. Lưu ý đối với tuyến xã, phường, thị trấn có thể tiêm bắp thịt 10mg diazepam rồi chuyển tuyến.
Sốt cao
Xác định tình trạng sốt khi sản phụ có hiện tượng nhiệt độ của cơ thể trên 37,80C đo ở miệng hoặc trên 38,20C đo ở trực tràng hoặc là có sự tăng cao hơn nhiệt độ cơ thể mức bình thường; sốt cao được xác định khi nhiệt độ cơ thể từ 400C trở lên. Xác định nguyên nhân sốt căn cứ vào các bệnh cảnh lâm sàng thường gặp như: sẩy thai nhiễm khuẩn, sót nhau, nhiễm khuẩn ối, nhiễm trùng hậu sản, các nhiễm khuẩn toàn thân khác gồm viêm não - màng não, thương hàn, viêm phổi, sốt rét, viêm phúc mạc, nhiễm khuẩn vú; ngoài ra cũng có thể do các nguyên nhân khác gây nên sốt như: tiêu chảy, viêm gan, nhiễm Rickettsia, tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, viêm họng.
Việc xử trí ban đầu được thực hiện theo nguyên nhân gây sốt. Lưu ý nên chuyển sản phụ lên tuyến trên khi vượt quá khả năng chuyên môn cho phép.
Đau bụng dữ dội
Xác định nguyên nhân sản phụ đau bụng dữ dội căn cứ vào các bệnh cảnh lâm sàng thường gặp như có thai ngoài tử cung vỡ, dọa sảy thai và sảy thai, dọa vỡ tử cung, chuyển dạ khi sinh, nhiễm khuẩn ối, nhau bong non, u buồng trứng xoắn. Lưu ý cần phân biệt với viêm ruột thừa, sỏi tiết niệu, viêm thận - bể thận, các bệnh ngoại khoa khác ở bụng...
Xử trí can thiệp ban đầu theo từng trường hợp bệnh lý và nên chuyển sản phụ lên tuyến trên khi vượt quá khả năng chuyên môn cho phép.
Để chuyển tuyến cấp cứu sản khoa an toàn
Nhằm bảo đảm an toàn cho sản phụ khi chuyển tuyến bệnh viện các trường hợp cấp cứu sản khoa thường gặp đã nêu trên, tất cả cơ sở y tế ở các tuyến phải có nhân viên y tế thường trực cấp cứu liên tục. Phân công cụ thể nhân viên y tế trực thường trú tại nhà để có thể gọi chi viện vào giờ nghỉ và ban đêm. Tại tuyến xã, phường, thị trấn nên lập đội cấp cứu y tế dựa vào cộng đồng. Khi chuyển tuyến bệnh viện phải có nhân viên y tế đi kèm với túi thuốc cấp cứu, bình hoặc bóng oxygen, dụng cụ đỡ đẻ sạch mang theo.
Về phương tiện vận chuyển, mỗi cơ sở y tế phải luôn luôn có sẵn túi cấp cứu và các phương tiện vận chuyển. Tại xã, phường, thị trấn cần hợp đồng cụ thể với những người lái xe ôm, chủ xe ô tô, chủ thuyền bè ở gần cơ sở y tế để có thể huy động bất cứ lúc nào cần chuyển người bệnh cấp cứu lên tuyến trên. Xe ô tô cấp cứu của bệnh viện quận, huyện, thị xã, thành phố và tỉnh luôn luôn ở tư thế sẵn sàng cấp cứu, lưu ý không được dùng xe cấp cứu vào việc khác; lái xe cấp cứu có chế độ trực liên tục như nhân viên y tế. Về phương tiện thông tin liên lạc, tất cả các cơ sở y tế từ tuyến xã, phường, thị trấn trở lên cần phải có thiết bị điện thoại và danh bạ điện thoại của cơ sở y tế tuyến trên để liên lạc xin chi viện, xin ý kiến chỉ đạo điều trị.
Khi vận chuyển, sản phụ cần được chăm sóc bằng cách giữ ấm, đặt ở tư thế thích hợp như nửa nằm nửa ngồi gọi là tư thế Fowler cho các trường hợp khó thở, mắc bệnh tim; để đầu thấp, chân cao, nghiêng một bên cho các ca có sốc, nếu thai nhi còn trong bụng mẹ thì nên cho nằm nghiêng trái; để đầu thấp, kê cao mông gọi là tư thế đầu gối-ngực cho những trường hợp sa dây rốn. Nếu sản phụ bị băng huyết do đờ tử cung, còn ra máu thì nhân viên y tế ngồi bên cạnh liên tục xoa bóp tử cung; khi cần thì ép tử cung bằng hai tay qua thành bụng hoặc buộc chặt bụng dưới bằng một băng vải thun. Trường hợp cần thiết vẫn phải tiếp tục truyền dịch, cho thở oxygen, tiêm thuốc hồi sức, thuốc co tử cung... trên đường vận chuyển.
Trên thực tế, một số trường hợp sản phụ trong quá trình sinh đẻ gặp phải các vấn đề bệnh lý có liên quan đến sản khoa cần được phát hiện các dấu hiệu nguy hiểm để xử trí ban đầu và chuyển lên tuyến trên nếu vượt quá khả năng chuyên môn chuyên môn cho phép. Đối với sản phụ và người nhà đi kèm theo đến cơ sở y tế cũng cần có những hiểu biết cần thiết về vấn đề này để cùng phối hợp thực hiện chỉ định chuyển tuyến cấp cứu sản khoa, không vì sự nóng vội dẫn đến hậu quả không tốt cho chỉnh bản thân mình và người thân; đồng thời phải có sự cảm thông đối với cơ sở và nhân viên y tế nơi đến sinh đẻ ban đầu về quy định chuyên môn. Mọi sự thắc mắc, khiếu nại cần được nhân viên y tế tại cơ sở giải thích, tư vấn một cách đầy đủ để sản phụ và người nhà hiểu rõ mặc dù có đề nghị chuyển tuyến bệnh viện; tránh trường hợp do bức xúc, thiếu hiểu biết dẫn đến những tình huống đáng tiếc xảy ra, trong đó có cả hành vi bạo lực đối với nhân viên y tế.