Để loại trừ dơi, người ta sẽ dùng kỹ thuật âm thanh điện tử, phát ra những tiếng động kinh khủng mỗi ngày từ trưa đến 4 giờ chiều. Mỗi đợt 15 ngày, hết đợt nọ đến đợt kia, có thể đến năm 2039, ngoài những thời gian dơi sinh sản. Loài dơi sinh sản nhanh, nhưng cũng thuộc loài vật có thể bị tuyệt chủng.
Cuộc “tổng phản công” dơi ở Úc khiến tôi nhớ lại cuộc đuổi dơi hồi bé của gia đình tôi. Cha tôi có cái trại nhỏ ở làng Mọc thuộc ngoại ô Hà Nội. Trại trồng nhiều nhãn. Mùa quả, đêm đến, dơi bay tới ăn quả. Chúng tôi phải dùng thân tre nứa đập vào nhau gây tiếng động để đuổi dơi. Tôi cũng nhớ đến những hang động ở các chùa, thường có dơi bay, dơi đậu, nhất là chùa người Khơme Nam Bộ ở cách thành phố Sóc Trăng độ 4km. Tên chùa là chùa Dơi vì sân chùa có hàng nghìn con dơi treo mình lủng lẳng vào cành những cây vú sữa. Những con to có thể cân nặng đến 1kg và sải cánh tới 1,5m, nghĩa là hơn cả loại “dơi khổng lồ” ở Úc. Chúng nương thân ở cửa thiền, vì thấy ở đây yên thân. Ra ngoài có thể bị bắt vì dân cũng có người ăn thịt dơi. Móc vào cành, treo mình lơ lửng, kêu ríu rít và toả mùi hôi đặc biệt. Khách cần che ô hay đội mũ tránh phân dơi rơi trúng đầu. Hễ nhà sư nhóm lửa, dơi sợ khói bay lên không. Không hiểu tại sao ở Úc không dùng khói mà hun đuổi dơi? Xâm xẩm tối, dơi bay đi tứ phương kiếm quả ăn.
Ở Trung Quốc, hình tượng con dơi mang ý nghĩa hạnh phúc. |
Dơi thuộc loài có vú, có ba loại chính: dơi ăn hoa quả, dơi ăn sâu bọ và dơi hút máu. Dơi bắt nhạy từng tiếng rung cánh rất nhỏ của con mồi, định hướng bay chính xác và tránh được các vật cản. Năm 1941-1943, trong thế chiến II, Mỹ có dự án dùng dơi làm công cụ tác chiến: sử dụng tia X huy động dơi đeo bom, gây cháy nổ. Họ đã bắt nuôi đến 8 vạn con dơi để thí nghiệm ở một làng giữa sa mạc. Làng bị phá hủy 80%, cuối cùng dự án ấy phải huỷ bỏ.
Ở Nam Mỹ, có loại dơi nhỏ chuyên hút máu các con chim hay vật có vú đang ngủ. Do đó mà người ta mê tín cho là có người chết hoá ma quỷ đêm đêm ra khỏi mộ đi hút máu người sống (ma cà rồng, vampire).
Nói chung, dơi không có hại mà có ích cho loài người (thụ phấn hoa, phát tán các hạt cây). Ta không giết hại dơi để chúng bắt muỗi, nhưng hình thù dơi gớm ghiếc, lại đi ăn đêm nên ít được cảm tình của con người. Điều này thể hiện qua một số thành ngữ: “nửa dơi nửa chuột”, “mặt dơi tai chuột”, “vẽ dơi vẽ chuột”. Nhưng ở Trung Quốc và các nước đồng văn, hình tượng dơi lại mang ý nghĩa tốt lành. Đó là vì trong Hán tự, chữ fou (ta đọc là phúc) cùng một âm mà chỉ hai nghĩa: con dơi và hạnh phúc. Do đó dơi thành biểu tượng hạnh phúc. Hình dơi được kèm theo chữ thọ (chúc Phúc và Thọ). Người ta tin là dơi sống lâu, vì nó ở trong hang, động tiên. Thực tế, dơi chỉ sống khoảng 32 năm. Năm con dơi xếp cùng nhau biểu tượng cho ngũ phúc: phú, quý, thọ, khang, ninh. Hình dơi được vẽ, khắc chạm khắp nơi: gỗ, đồ sứ, hoành phi, câu đối. Trong khi ở nhiều nền văn hoá khác lại cho dơi là uế tạp, không thuần khiết, nên khiếp sợ mà thờ cúng. Một số bộ lạc da đỏ coi dơi là thần chết. Có bộ lạc coi dơi là con vật báo mưa. Một số bộ tộc châu Phi thì có hai biểu tượng đối lập nhau: Sự sáng suốt vì nó nhìn xuyên bóng tối u mê của vũ trụ, cũng là sự mù quáng tối tăm. Trong tranh tượng thời Phục hưng ở châu Âu, dơi biểu tượng cho người phụ nữ mắn đẻ. Vì vậy, dơi hay xuất hiện bên nữ thần Hy Lạp Artémis có nhiều vú. Một số tác phẩm nghệ thuật Đức coi dơi là biểu tượng của sự đố kỵ. Vì dơi là chuột muốn thành chim nhưng mới được nửa vời, nên dơi còn biểu tượng cho sự ngưng trệ trong quá trình tiến hoá, một phế phẩm của tinh thần.
Hữu Ngọc