Chứng dương hư thường gọi là chứng hư hàn, là tên gọi chung cho các trường hợp dương khí bất túc, cơ năng suy thoái, các cơ quan trong cơ thể không được sưởi ấm. Nguyên nhân chủ yếu do tiên thiên phú bẩm bất túc, do đau ốm lâu ngày thể trạng hư yếu hoặc do hàn tà xâm phạm vào cơ thể làm tổn thương dương khí. Trong trường hợp này nói đến dương khí bất túc toàn cơ thể, chứng dương hư thường gặp trong các bệnh như: thuỷ thũng, tiết tả, tâm quý, hư lao.
Triệu chứng lâm sàng
Sợ lạnh, tay chân lạnh, sắc mặt thường trắng bệch, sức yếu hay mệt mỏi, do thiếu khí nên hay hụt hơi, biếng nói, tự ra mồ hôi, miệng nhạt không khát, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng, chất lưỡi trắng nhạt, mạch hư trì hoặc trầm nhược. Cần phân biệt với các chứng khí hư, chứng lý hàn thực, chân nhiệt giả hàn.
Chứng dương hư phần nhiều phát sinh ở những người có thể trạng phú bẩm bất túc, tuổi cao thể lực suy kém, hoặc ốm lâu ngày điều trị và nuôi dưỡng không tốt, bệnh thường nhẹ về mùa hạ vì được dương khí của trời đất hỗ trợ, còn mùa đông do âm khí nhiều hơn nên bệnh nặng hơn. Trong quá trình bệnh lý, chứng dương hư thường biểu hiện hai tình huống: Một là âm dương nương tựa vào nhau, vì dương hư lâu ngày thì tổn hại đến âm và sinh ra chứng âm dương đều hư cho nên trên lâm sàng có biểu hiện của dương hư như: sợ lạnh, chân tay lạnh, mệt mỏi yếu sức; nhưng cũng có biểu hiện của chứng âm hư như: triều nhiệt, mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt. Hai là do dương khí bất túc, sự vận hoá kém nên trọc âm tích tụ thuỷ thấp tắc nghẽn, đình trệ ẩm ngưng đọng, có thể sinh ra chứng huyết ứ...
Câu kỷ tử. |
Phương pháp điều trị
Bệnh tiết tả xuất hiện chứng dương hư:
Nguyên nhân: Do đi tả lâu ngày làm tổn thương phần dương của tỳ vị làm chức năng vận hoá của tỳ vị kém, hoặc thận dương bất túc mệnh môn hoả suy yếu mà sinh ra chứng dương hư.
Triệu chứng lâm sàng: Vùng bụng đau, sợ lạnh, sôi bụng, đại tiện lỏng, mạch trầm tế vô lực...
Phương pháp điều trị: Ôn dương chỉ tả.
- Nếu tỳ vị dương hư thì dùng bài Lý trung thang để điều trị: nhân sâm 12g, can khương 8g, bạch truật 12g, chích thảo 4g.
- Nếu thận dương hư thì dùng bài Tứ thần hoàn để điều trị: bổ cốt chỉ 16g, nhục đậu khấu 8g, ngô thù du 8g, ngũ vị tử 6g.
Các bài thuốc trên ngày uống 1 thang sắc uống 3 lần, tùy chứng có thể gia vị cho thích hợp.
Chứng dương hư sinh ra bệnh thủy thũng
Nguyên nhân: Do tỳ dương hư không vận hóa, dẫn đến thủy thấp không lưu thông. Hoặc do thận dương bất túc mất chức năng khí hóa mà sinh ra bệnh.
Triệu chứng lâm sàng: Từ lưng trở xuống phù thũng nặng, ấn tay vào thì lõm sâu một lúc lâu mới hồi phục, chân tay lạnh, tinh thần mệt mỏi, tiểu tiện sẻn, chất lưỡi nhạt bệu, rêu lưỡi trắng trơn, mạch trầm tế.
Phương pháp điều trị: Ôn dương lợi thủy.
- Nếu tỳ dương hư dùng bài Thực tỳ ẩm: phụ tử chế 8g, hậu phác 8g, bào khương 8g, mộc hương 6g, bạch truật 12g, mộc qua 12g, thảo quả nhân 8g, đại phúc tử 8g, phục linh 12g, chích thảo 4g, sinh khương 12g, đại táo 12g. Ngày một thang sắc uống khi thuốc còn ấm, lúc đói, tùy chứng có thể gia giảm cho thích hợp.
- Nếu thận dương hư thì dùng bài Chân vũ thang để điều trị: phục linh 12g, bạch truật 8g, bạch thược 12g, hắc phụ tử chế 6g, sinh khương 2g. Sắc uống ngày một thang, uống khi thuốc còn ấm trước khi ăn.
Chứng dương hư trong bệnh tâm quý
Nguyên nhân: Do tâm dương không mạnh mà sinh ra bệnh.
Triệu chứng: Chóng mặt, hồi hộp, cơ thể lạnh, tay chân lạnh, sức yếu, tinh thần mệt mỏi, lưỡi trắng, mạch tế nhược sác.
Phương pháp điều trị: Bổ tâm dương.
Dùng bài thuốc Linh quế truật cam thang: phục linh 16g, bạch truật 12g, quế chi 12g, chích thảo 18g. Sắc uống ngày một thang, tuỳ chứng mà gia giảm và dùng liều lượng cho thích hợp.
Chứng dương hư xuất hiện hư lao
Nguyên nhân: Do tỳ dương bất túc, chức năng vận hoá kém hoặc thận dương hư bất túc, mệnh môn hoả suy yếu mà sinh ra bệnh.
Triệu chứng: Sợ lạnh, tay chân lạnh, mỏi mệt, hụt hơi, đại tiện lỏng, lưỡi nhạt rêu lưỡi trắng, mạch hư nhược.
Phương pháp điều trị: Ôn dương phù chính.
- Nếu tỳ hư thì dùng bài Chửng dương lý lao thang: nhân sâm 12g, bạch truật 8g, hoàng kỳ 12g, chích thảo 4g, trần bì 12g, nhục quế 6g, ngũ vị tử 6g, sinh khương 6g, đại táo 12g, đương quy 8g.
- Nếu thận dương hư thì dùng bài Hữu quy hoàn: lộc giác giao 16g, sơn thù 6g, thục địa 16g, đỗ trọng 12g, hoài sơn 12g, đương quy 12g, câu kỷ tử 12g, thỏ ty tử 12g, phụ tử 8g, nhục quế 6g. Sắc uống ngày một thang, uống lúc đói khi thuốc còn ấm.
BS. Thạch Kênh