Khi tổn thương mạch máu tích tụ đủ lớn có thể gây các biến cố cấp tính và đe dọa tính mạng người bệnh. Rối loạn lipid máu là một rối loạn chuyển hóa phổ biến, xảy ra khi có sự gia tăng cholesterol "xấu" (LDL-C) trong máu, khiến mảng xơ vữa tích tụ ở thành mạch. Quá trình này có thể kéo dài âm thầm hàng chục năm mà không gây triệu chứng. Khi mảng xơ vữa nứt vỡ, cục huyết khối hình thành gây tắc nghẽn đột ngột, dẫn đến nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ cấp. Đáng chú ý, tình trạng này không chỉ xảy ra ở người lớn tuổi hay người béo phì mà còn gặp ở người trẻ, thậm chí có cân nặng bình thường và không có yếu tố nguy cơ cổ điển. Chính vì vậy, việc tầm soát sớm đóng vai trò quan trọng để phòng ngừa các biến cố tim mạch.

Chương trình tư vấn phòng ngừa bệnh tim mạch cho người rố loạn Lipid máu.
Một trường hợp điển hình được chia sẻ tại chương trình cho thấy giá trị của việc phát hiện sớm và điều trị đạt hiệu quả. Người bệnh nam 58 tuổi, hoàn toàn không có triệu chứng, được phát hiện LDL-C ở mức 195 mg/dL trong một lần khám sức khỏe định kỳ tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh (BV ĐHYD). Ngoài ra, khi làm các xét nghiệm tầm soát xơ vữa động mạch: người bệnh này có xơ vữa động mạch cảnh 2 bên, xơ vữa động mạch và gây hẹp 50% động mạch đùi. Sau khi được chẩn đoán rối loạn lipid máu nặng và có xơ vữa động mạch dưới lâm sàng (không triệu chứng), người bệnh được xếp loại thuộc nhóm nguy cơ rất cao. Bác sĩ cho biết, muc tiêu điều trị ở người bệnh này là nồng độ LDL-C trong máu phải thấp hơn 55 mg/dL và càng thấp càng tốt, duy trì lâu dài để giảm các nguy cơ đột quỵ và nhồi máu cơ tim. Người bệnh được điều trị ngay với việc phối hợp 2 loại thuốc là statin liều cao và ezetimibe (trong 1 viên phối hợp), kết hợp thay đổi chế độ ăn và tăng cường vận động. Sau 6 tháng theo dõi, chỉ số LDL-C giảm còn 70 mg/dL, các yếu tố nguy cơ khác cũng được kiểm soát ổn định. Để đạt được mục tiêu (< 55 mg/dL), người bệnh cần phải tích cực hơn nữa trong việc vận động và kiểm soát chặt chẽ hơn chế độ ăn.
Không phải tất cả các thành phần lipid máu đều gây hại như nhau. HDL-C được xem là "cholesterol tốt" vì có khả năng vận chuyển và dọn dẹp lipid thừa ra khỏi thành mạch, trong khi LDL-C và triglyceride lại là những yếu tố chính thúc đẩy quá trình bệnh lý. Các hạt LDL-C kích thước nhỏ dễ thấm vào lớp nội mạc, bị đại thực bào "nuốt" tạo thành tế bào bọt, đây được xem là nền tảng hình thành mảng xơ vữa. Khi quá trình này kéo dài, thành mạch dày lên, xơ cứng và mất tính đàn hồi.

TS BS. Trần Hoà - Phó Trưởng khoa Tim mạch can thiệp thăm khám người bệnh.
TS BS. Trần Hòa – Phó Trưởng khoa Tim mạch can thiệp nhấn mạnh: "Trong điều trị rối loạn lipid máu, LDL-C là mục tiêu chính cần được kiểm soát vì mỗi 1 mmol/L LDL-C giảm xuống giúp giảm 20–25% nguy cơ biến cố tim mạch."
Hiện nay, điều trị rối loạn lipid máu không chỉ là kiểm soát một chỉ số xét nghiệm mà là một chiến lược toàn diện dựa trên phân tầng nguy cơ tim mạch. Người bệnh được đánh giá tổng thể để xác định nhóm nguy cơ, từ đó đặt mục tiêu LDL-C phù hợp: nhóm nguy cơ cao cần đạt LDL-C dưới 70 mg/dL, nhóm nguy cơ rất cao phải dưới 55 mg/dL, và với người đã đặt stent mạch vành, mục tiêu "càng thấp càng tốt" nhằm hạn chế nguy cơ tái hẹp stent. Tại BV ĐHYD, bác sĩ sử dụng công cụ đánh giá nguy cơ tim mạch tổng thể để xây dựng phác đồ điều trị cá thể hóa, phù hợp cho từng người bệnh có triệu chứng cụ thể. Để đạt được mục điều trị tối ưu, việc thay đổi lối sống là nền tảng không thể thiếu: ăn uống lành mạnh, hạn chế chất béo bão hòa, tăng cường vận động thể lực, bỏ thuốc lá và kiểm soát các bệnh đi kèm như tăng béo phì, huyết áp, đái tháo đường. Song song với đó, việc điều trị bằng thuốc đóng vai trò then chốt và statin là lựa chọn đầu tay.
Tuy nhiên, TS BS. Trần Hòa cũng lưu ý, chỉ khoảng 20–30% người bệnh đạt được mục tiêu LDL-C với việc chỉ sử dụng statin, dù là liều cao . Khi đáp ứng chưa đủ, bác sĩ sẽ phối hợp thêm ezetimibe, một thuốc ức chế hấp thu cholesterol, giúp tăng hiệu quả hạ LDL-C mà vẫn an toàn. Việc theo dõi định kỳ và điều chỉnh phác đồ kịp thời cũng rất quan trọng để duy trì hiệu quả điều trị lâu dài. Đồng thời, khuyến nghị người dân không nên chờ đến khi có triệu chứng mới đi khám. Việc tầm soát định kỳ, phát hiện sớm và điều trị đạt đích LDL-C giúp giảm đáng kể tỷ lệ nhồi máu cơ tim, đột quỵ và các biến chứng tim mạch khác. Đặc biệt, đối với những người trên 40 tuổi, có các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì hoặc tiền sử gia đình bệnh tim mạch, nên chủ động kiểm tra mỡ máu định kỳ. Phòng ngừa từ sớm và kiểm soát bền vững chính là chìa khóa bảo vệ trái tim khỏe mạnh.
Nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về vấn đề này, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh phối hợp cùng Công ty TNHH Dược phẩm Gigamed tổ chức chuỗi chương trình tư vấn "Chăm sóc sức khoẻ cho bạn và gia đình" với chủ đề "Phòng ngừa bệnh tim mạch cho người rối loạn lipid máu", Xem chương trình tại: https://bit.ly/Phongnguabenhtimmach
Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh