Bây giờ, có rất nhiều sinh viên y lần đầu được học môn Tiết niệu và nghĩ mình sẽ theo đuổi chuyên khoa này. Tuy nhiên, sau đó có nhiều lựa chọn giữa Nội khoa và Ngoại khoa.
Với riêng tôi, tôi chọn Ngoại khoa chẳng qua vì thấy các vị Nội khoa nghiêm nghị quá, còn các bác sĩ Ngoại khoa thường cởi mở dù có hay nóng nảy hơn các nhà Nội khoa. Tôi chọn Tiết niệu là vì tôi chọn thầy hướng dẫn. Khi tôi thi nội trú, bạn hạng nhất chọn Tai mũi họng, bạn hạng nhì chọn Phẫu nhi, tôi hạng 3, tôi chọn Tiết niệu vì thầy hướng dẫn Tiết niệu lúc đó là GS. Ngô Gia Hy. Rồi tôi chọn Nam khoa là do “dòng đời đưa đẩy”. Tôi học Tiết niệu với TS. Jurascheck từ 1993 - 1994, “không may” ông thầy này lại thích tình dục học nên tôi học luôn môn này. Từ 1994-1995, tôi học GS. Michel - một bác sĩ Tiết niệu nhưng cũng thích làm Nam khoa. Khoa của ông có tên là Service d’urologie et d’andrologie nên tôi học luôn AFSA en andrologie. Năm 1995-1996, tôi đến Lausanne thì người bác sĩ mà tôi thân là TS. Wisard cũng là chuyên viên Nam khoa. Năm 1998, về lại BV Bình Dân thì Tiết niệu đã là cánh đồng đầy hoa quả trong khi Nam khoa chỉ là mảnh đồi trọc. Thế là tôi xin vác cuốc ra cái đồi đó để cày xới. May mắn sao, tay tôi không bị run khi mổ vi phẫu nên mới mổ Nam khoa được. Trong số hơn 40 bác sĩ mà tôi đào tạo Nam khoa, chỉ có mỗi một em bác sĩ còn rất trẻ là có kỹ năng bẩm sinh này: tay không run, còn các em khác đều có bàn tay run ít nhiều. Tay run nặng thì chẳng thể mổ vi phẫu, tay run vừa thì chỉ mổ được giãn tĩnh mạch tinh, tay run nhẹ thì chỉ nối được ống dẫn tinh chứ không thể nối được ống dẫn tinh với mào tinh, nối động mạch lưng dương vật.
Tư vấn nam khoa cho bệnh nhân. Ảnh: Trần Minh
Như vậy, kinh nghiệm của tôi là nếu muốn đi Ngoại khoa thì cần có một tính cách phù hợp: cởi mở, thân thiện, thích làm việc tập thể, có bàn tay khéo léo và cần có cái đầu “lạnh” khi chứng kiến máu tuôn xối xả. Nếu thích độc lập làm việc, cặm cụi một mình thì nên đi Nội. Nếu hơi nhút nhát thì đừng đi Ngoại. Làm Nội khoa cũng có thể phải có đầu “lạnh” khi trực cấp cứu nhưng thường là do bệnh diễn tiến cấp, bác sĩ nhảy vô cứu; còn tình huống khẩn cấp của Ngoại khoa có thể do chính bác sĩ gây ra như đang mổ mà máu phun có vòi, không “lạnh” thì bệnh nhân chết trên tay mình. Ngoại tổng quát hay Tiết niệu hay Ngoại thần kinh... khi đi sâu vào từng chuyên khoa thì đều có những mảng có tính “nội khoa” nhiều hơn. Ví dụ, trong Tiết niệu, Nam khoa và Niệu động học là những mảng (những chuyên khoa phụ) có tính nội khoa cao hơn là ngành Sỏi niệu, Bướu niệu, Nội soi niệu. Kế tới là kỹ năng bẩm sinh, nếu một bác sĩ có tay run dù là nhẹ thì chẳng thể mổ Nam khoa giỏi được. Sau cùng, bác sĩ nào cũng cần có nền tảng giải phẫu, sinh lý, dược lý... Một bác sĩ ngoại khoa mà giỏi những môn này, giỏi nội khoa thì sẽ dễ “bứt tốp” trở thành bác sĩ giỏi, còn nếu không thì em chỉ có thể trở thành bác sĩ nhiều kinh nghiệm mà thôi. Một bác sĩ nhiều kinh nghiệm có thể giải quyết tốt 95% các mặt bệnh nhưng chính cái 5% còn lại mới quyết định ai giỏi, ai không giỏi. Mà nền tảng của cái 5% đó là sinh lý, dược lý, nội khoa....
Tôi có biết một số bác sĩ tính cách không phù hợp với Ngoại khoa nhưng vẫn cố chọn Ngoại khoa, sau 10-15 năm theo ngành mổ xẻ, họ dần dần chuyển qua làm nghề viết kịch, thông dịch, viết sách giáo khoa, viết truyện chưởng... chứ không mổ xẻ gì được nữa.
BS. Nguyễn Thành Như