Vừa rồi tôi đi nội soi dạ dày tá tràng, trước khi tiến hành soi bác sĩ có chỉ định xịt thuốc tê, tuy nhiên sau khi xịt vài phút tôi thấy người choáng váng, mạch đập nhanh, nóng bừng mặt, sau đó đã được bác sĩ xử trí kịp thời. Trước đây, khi xịt thuốc gây tê để khâu vết thương, tôi đã bị tình trạng như vậy. Xin hỏi tại sao có hiện tượng này? Tôi xin cảm ơn!
Nguyễn Thành Vũ (Hà Nội)
Thuốc gây tê là thuốc có khả năng ức chế có hồi phục sự phát sinh và dẫn truyền xung động thần kinh từ ngoại vi về trung ương, làm mất cảm giác cảm giác đau, nóng, lạnh...) của một vùng cơ thể nơi đưa thuốc; sử dụng liều cao thuốc ức chế cả chức năng vận động. Cho đến nay, có nhiều hóa chất được dùng làm thuốc gây tê tại chỗ sử dụng trên lâm sàng.
Thuốc gây tê tại chỗ dùng để giảm đau, hạ nhiệt, giảm xúc giác và trương lực cơ xương. Ở liều thấp, thuốc chỉ có tác dụng giảm đau mà không làm mất các cảm giác khác; ở liều điều trị và liều cao ngoài giảm đau thuốc còn có các tác dụng làm mất các cảm giác khác, ức chế dẫn truyền vận động và có thể ảnh hưởng đến các cơ quan khác như tim mạch, hô hấp. Hiện có hai nhóm thuốc được sử dụng nhiều nhất
Nhóm thuốc gây tê có cấu trúc Este: Điển hình là procain (novocain), Nhóm thuốc này ít có tác dụng gây tê bề mặt do ít thấm qua niêm mạc, chủ yếu dùng gây tê sâu, gây tê tiêm thấm và thường phải phối hợp với chất co mạch để kéo dài tác dụng gây tê. Ngoài ra thuốc còn có tác dụng giảm dẫn truyền thần kinh cơ, liều cao gây liệt cơ; làm chậm nhịp tim, hạ huyết áp. Do đó khi dùng thuốc cần lưu ý, thuốc có thể gây hạ huyết áp đột ngột, nhức đầu, chuột rút, co giật, dị ứng thuốc.
Nhóm thuốc gây tê có cấu trúc amit: Điển hình là lidocain. Lidocain gây giãn mạch nơi tiêm, nên thường phối hợp với chất co mạch để giảm hấp thu thuốc. Thuốc vừa có tác dụng gây tê bề mặt, vừa có tác dụng khi gây tê sâu. Tác dụng nhanh, mạnh và kéo dài hơn novocain, ngoài ra còn có tác dụng chống loạn nhịp tim. Tuy nhiên khi dùng tại chỗ thuốc có thể gây viêm tắc tĩnh mạch, viêm màng nhện, sốc phản vệ; khi dùng chống loạn nhịp có thể gây hạ huyết áp, co giật, chậm nhịp tim; quá liều gây trụy tim mạch, rung tâm thất, rối loạn nhịp hoặc ngừng tim, ngừng hô hấp gây tử vong.
ThS. Nguyễn Vân Anh