Cho tiếng rừng ngân xa

27-05-2017 06:44 | Xã hội
google news

SKĐS - Trên cao nguyên bazan hùng vĩ, có biết bao điều huyền diệu mà mỗi người trong chúng ta chưa biết tới. Dẫu chỉ giản đơn là một tiếng gió về qua nóc nhà rông...

Trên cao nguyên bazan hùng vĩ, có biết bao điều huyền diệu mà mỗi người trong chúng ta chưa biết tới. Dẫu chỉ giản đơn là một tiếng gió về qua nóc nhà rông, tiếng thác Đăm Ri ồn ào đưa nước bạc hay một tiếng tơ rưng, một nhịp đàn đá, một bước voi đi uy lẫm giữa đại ngàn, thì đó chính là những thanh âm riêng có của đất trời Tây Nguyên hội tụ...

Giữa không gian ngập tràn tiếng nhạc trời xao xuyến ấy, có một thứ mà nó như nói lên được tâm tư tình cảm của bà con. Mỗi lần nghe văng vẳng đâu đó tiếng vọng ngân của nó giữa núi rừng là biết ngay nơi ấy, làng ấy có xảy ra sự kiện gì, biết con người ấy đang có tâm trạng gì... Nó không lẫn vào đâu được. Nó là nhịp chiêng xoang rộn ràng hơi thở cuộc sống, là tiếng cồng âm vang hồn đất mẹ vía trời cha. Và... nó sinh ra những đứa con của rừng, của buôn làng mà mỗi nhịp đập trong huyết quản là mỗi nhịp của cồng chiêng, của hồn núi, hồn rừng.Nghệ nhân A Thút ( người đứng đầu) hướng dẫn đội chiêng làng Đăk Wớt tập luyện.

Nghệ nhân A Thút ( người đứng đầu) hướng dẫn đội chiêng làng Đăk Wớt tập luyện.

Đăk Wớt là một làng lớn của đồng bào R Ngao, thuộc tổng Hơ Moong xưa trên đất Kon Tum. Trải qua nhiều biến động bởi các cuộc thiên di trong chiến tranh, ly tán, ngôi làng hiện vẫn còn lưu giữ, bảo tồn nhiều di sản văn hóa quý báu. Nói đến làng Đăk Wớt ngày nay, không thể không nhắc đến đội nghệ nhân dân gian của làng với 26 thành viên. Họ đã từng đem bản sắc văn hóa độc đáo của buôn làng mình, dân tộc mình tới giới thiệu với bạn bè thế giới tại Mỹ, Hàn Quốc, Malaysia... Các cơ quan quản lý, nghiên cứu của Trung ương và địa phương như Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian; Bảo tàng dân tộc học Việt Nam; Cục Di sản Văn hóa, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã trực tiếp nghiên cứu và đánh giá đây là một đội nghệ nhân độc đáo và có nhiều nét riêng biệt trong khu vực và trong cả nước. Và khi nhắc đến những nghệ nhân chân đất ấy, càng không thể không nhắc tới linh hồn của đội là một người đàn ông Bana mang trong trái tim mình niềm tự hào dân tộc và điệu chiêng xoang đắm say rừng núi.

Năm 1952, chính tại ngôi làng này, một bé trai ra đời, được đặt tên là A Thút. Cha chú bé là ông A Bek, một nghệ nhân ròn chiêng lão luyện của làng và mẹ là bà Y Lang, cô gái Bana hát dân ca rất hay, múa xoang rất đẹp. Mê chiêng từ lúc cái chân biết đi kiếm măng le, cái miệng biết hát lời chim Chơ rao... cậu bé Bana ấy đã luôn theo sát bác A Thim và cha A Bek của mình trong mỗi lần đội chiêng làng vào hội. Chẳng mấy chốc A Thút đã thành thạo những bài chiêng truyền thống của dân tộc mình.

Lớn lên theo bao nhiêu biến động của buôn làng và thời cuộc, lúc thiếu thời, A Thút đã cùng một số thanh niên trong làng vượt rừng gùi lương thực tiếp tế cho bộ đội. Bị kẻ địch lùng bắt, cha mẹ gửi A Thút theo học tại Trường thiếu sinh quân Pleiku rồi sang Trường trung học Nguyễn Du tận Ban Mê Thuột. Ở đây, A Thút có ông chú làm Trưởng ty Phát triển sắc tộc của chế độ cũ giữ lại nuôi ăn học và giúp việc nhà đến ngày giải phóng.

Nghệ nhân A Thút trình bày bài dân ca “Rủ nhau đi hái măng le” cùng cây đàn Tinh - ninh.

Sau giải phóng, A Thút về lại quê nhà. Lúc này, làng Đăk Wớt dời về lại nơi nguyên gốc là xã Hà Mòn thuộc huyện Đăk Hà, bên tả ngạn sông Pô Kô, cách thị xã Kon Tum chừng 20 cây số. Ở đây A Thút được giao phụ trách Chi hội Thanh niên xã, rồi Phó ban Văn hóa xã, rồi Đại biểu HĐND xã. Đến 18/4/2005, những cư dân của làng Đăk Wớt lại một lần nữa theo cuộc thiên di sang phía hữu ngạn sông Pô Cô, nhường đất cho công trình hồ thủy điện Plêi Kroong. Xã mới Hơ Moong được thành lập với 5 cụm dân cư khang trang. A Thút được giao nhiệm vụ Phó Chủ tịch phụ trách văn hóa - xã hội của xã - một nhiệm vụ biết mấy khó khăn trên hành trình tái định cư trên đất mới.

Bao năm vừa làm cán bộ địa phương vừa tham gia lao động sản xuất nông nghiệp cùng bà con đồng tộc quanh vùng, A Thút vẫn luôn vương vấn trong lòng hình ảnh những năm chiến tranh lưu tán, dẫu phải bỏ lại buôn làng cùng ruộng nương nhưng người già vẫn gói buộc kỹ càng bộ chiêng quý của làng mang theo. Năm 1983, làng Đăk Wớt mất mùa, mọi người dân trong làng có bao nhiêu chiêng, ché đều mang ra bán hoặc đổi lấy lương thực. Chứng kiến cảnh ấy, A Thút không đành lòng. Anh đã bán gần hết tài sản để mua lại bộ chiêng quý trên 100 năm tuổi của bà ngoại để lại cùng hai bộ chiêng khác. Một bộ A Thút tặng lại cho cha là già A Bek để bộ chiêng lại có dịp hòa tiếng cùng những buồn vui của buôn làng. Một bộ dành để truyền dạy cho bọn trẻ. Riêng bộ chiêng cổ của bà ngoại, A Thút chỉ dùng vào những dịp thật đặc biệt mà thôi.

Năm 2001, dự án “Điều tra, sưu tầm sử thi Tây Nguyên” do Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức, mời anh tham gia đoàn sưu tầm. Thật may mắn là cả vùng Hơ Moong nay chỉ còn cụ A Bek trên 80 tuổi là cha của A Thút, biết hát kể sử thi hay còn được gọi là kể Hơ mon. Cụ là một trong ba người hiếm hoi ở Tây Nguyên được công nhận là nghệ nhân diễn xướng sử thi Bana. Cùng với cha mình, A Thút  âm thầm tìm hiểu, dịch nghĩa các bài Hơ mon cổ để truyền bá những giá trị nghệ thuật, văn hóa độc đáo của sử thi Tây Nguyên cho công chúng. Cùng với đội chiêng xoang, A Thút mơ sao cho tiếng chiêng của buôn làng mình được vang xa, bay cao cho mọi người mọi nơi biết đến!Phó Chủ tịch xã A Thút cùng bà con làng Ka Tol sửa chữa nhà rông.

Phó Chủ tịch xã A Thút cùng bà con làng Ka Tol sửa chữa nhà rông.

Và rồi mơ ước của người nghệ nhân Bana ấy đã thành hiện thực. Niềm vui vỡ òa khi anh cùng 16 nghệ nhân làng mình được chọn sang Hoa Kỳ theo chương trình “Mê Kông - dòng sông kết nối” năm 2007. Tháng 6/2008, anh lại cùng đoàn nghệ nhân Việt Nam đến Thủ đô Kualar Lumpuar của Malaysia biểu diễn và dự hội thảo “Văn hóa truyền khẩu các nước Asean”. Tháng 10 năm ấy, A Thút lại cùng 10 nghệ nhân khác đi Hàn Quốc tham dự Festival dân ca và cồng chiêng. Bạn bè thế giới từ chỗ ngạc nhiên đã thấy được cái hay, cái đẹp của một loại hình nghệ thuật đã được tôn vinh di sản. Tại mỗi quốc gia, tiếng chiêng xoang đến từ núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ có sức mời gọi bạn bè quốc tế cùng tham dự trong nhịp bước thân thiện, rộn ràng.

Chất nghệ sĩ trong con người A Thút là vậy, nhưng với vai trò là một Phó Chủ tịch phụ trách văn hóa - xã hội của một xã thuộc diện “vùng 3” (vùng đặc biệt khó khăn) A Thút cũng đã có nhiều đóng góp xứng đáng cho chính quyền và nhân dân nơi đây. Bà con Hơ Moong sau khi định cư trên đất mới vẫn còn đối mặt với biết bao thiếu khó. Đã vậy, tà đạo Hà Mòn từng len lỏi, đeo bám cuộc sống tinh thần của bà con như vòi bạch tuộc đã theo sang đất mới khiến cuộc sống càng nghẹt thở. Đồng chí Nguyễn Văn Niệm - Chủ tịch xã Hơ Moong cho biết, cùng với tập thể lãnh đạo Đảng ủy, HĐND, UBND xã, Phó Chủ tịch A Thút đã đến từng buôn làng để vận động bà con từ bỏ tà đạo, từ bỏ những hoạt động làm hoen danh một vùng quê giàu truyền thống.

Đêm Tây Nguyên, chúng tôi ngồi dưới gốc đa cổ thụ xòa bóng xuống nhà rông của làng Đăk Wớt. Đội chiêng - xoang nối thành vòng tròn lớn trên sân rộng. Tiếng cồng chiêng rộn ràng, tiếng hò reo ngân vang khiến những con dúi lười còn ngủ quên dưới gốc le cũng phải ngơ ngác. Còn lòng người như trôi đi theo tiếng chiêng vui. Trong nhịp chiêng ấy, nó hàm chứa sức mạnh là niềm tin tưởng giữa con người với đấng siêu nhiên, sự cộng cảm giữa cá nhân và cộng đồng, sự lây lan tâm lý tình cảm, để người ta thăng hoa, người ta xích lại gần nhau... Trong vòng chiêng ấy, nó là không gian “thiêng” của tín ngưỡng, nhưng nó lại là không gian vui vẻ, thân thiện, đoàn kết - không gian văn hóa của cộng đồng. Những người đàn ông của bản Đăk Wớt hôm qua còn còng lưng làm đất, chăm cây rừng thì lúc này, trong nhịp chiêng xoang, họ là những diễn viên thực thụ. Người già nghe chiêng thì hồi tưởng lại quãng đời oanh liệt và vất vả của bản thân và cộng đồng làng mình, những người khác thì vui múa, vui hát cho thỏa chí của người miền rừng, còn trai gái nhờ tiếng chiêng, cần rượu mà thầm thì hẹn ước...

Lẫn trong ánh lửa và nhịp đập Tây Nguyên đầy yêu mê ấy, tôi thấy gương mặt A Thút như có một vầng ánh sáng. Không rõ vầng sáng ấy được hắt lên từ cột lửa hồng hay ánh sáng từ đôi mắt anh. Chỉ biết là trong đêm xoang ấy, tôi đã hiểu thật sâu về đất và người Tây Nguyên. Và càng biết bao trân trọng mơ ước đưa tiếng rừng tiếng núi, tiếng của ông cha truyền đời bay cao, vang xa của người nghệ nhân Bana có tên A Thút.


Bài, ảnh: Đặng Tuệ Lâm
Ý kiến của bạn