Chợ hoa đào Hà Nội: Tuổi năm trăm

23-01-2009 07:10 | Văn hóa – Giải trí
google news

Từ TP.Hồ Chí Minh, quy cố hương, về lại Hà Nội đã hơn tám năm, tôi tự nhiên mất cái thú riêng: đi chợ hoa Hàng Lược vào ngày áp Tết,

Từ TP.Hồ Chí Minh, quy cố hương, về lại Hà Nội đã hơn tám năm, tôi tự nhiên mất cái thú riêng: đi chợ hoa Hàng Lược vào ngày áp Tết, dù trong quá vãng, rất nhiều mùa áp Tết tôi đã từng không thể không đi chợ hoa mà lòng không vương vấn mấy câu thơ Việt Phương: Đất được mùa hoa ta mùa đời/ Mỗi lòng thơm tỏa một hương vui/ Như người gieo hạt yêu quả chín/ Đi suốt đường hoa chỉ nhớ người. Sao vậy nhỉ? Không lẽ vì chợ hoa Hàng Lược đã đổi thay, hay mình đã "khóc khác xưa rồi hát cũng khác xưa theo" (thơ nữ sĩ Nga: Olga Bergol). Sau tôi hiểu, chợ hoa Hàng Lược đã chỉ còn đẹp trong hoài nhớ. Và tôi đang nhớ chợ hoa đây, nhớ bóng nhớ hình nhớ ảnh, nhớ cả biến thiên của nó trong suốt chiều dài 500 năm tuổi...

Trong chợ hoa Hàng Lược xa xưa, người ta từng mua bán có lẽ rất nhiều loài hoa, nhưng nhiều nhất, đặc trưng nhất vẫn là hoa đào. Theo nghiên cứu của GS. Trần Quốc Vượng, kiểu khí hậu như vùng châu thổ sông Hồng, thì gió Đông (ấm hơn gió mùa Đông Bắc, còn gọi là gió bấc) và hoa đào là minh chứng, vật chứng cho việc hoa có thể nở trong gió bấc, và vì thế, hoa đào và gió bấc đủ lý do để thành biểu tượng mùa xuân. Chẳng phải thơ Đường đã viết: Đào hoa y cựu tiếu Đông phong. Nguyễn Du cũng từng viết trong Kiều đấy thôi: Hoa đào năm ngoái còn cười gió Đông.

 Chợ hoa Tết ở Hà Nội. Ảnh: KM
Vì tôi từng yêu Hà Nội thiên lệch qua sắc đào của chợ hoa Hàng Lược, nên tưởng đâu Hà Nội chỉ có một chợ hoa duy nhất. Nhưng GS. Vượng khẳng định: Hà Nội đã không chỉ có một làng hoa. Và làng hoa còn là bản sắc của vùng ven đô thị cổ Hà Nội. Ông bảo: hai làng hoa Ngọc Hà - Hữu Tiệp nằm kề nhau, nay thuộc quận Ba Đình, từ xưa đã là "làng ven đô" và nổi tiếng: đất Ngọc Hà - hoa Hữu Tiệp, đất sinh hoa, hoa kết tinh hương từ đất. Yên Phụ cửa ô xưa, trước đời Thiệu Trị - Tự Đức (trước 1840-1848) mang tên Phường An (Yên) Hoa - tên này có từ đời Lý Trần (1010 -1400) - và có cánh đồng bông: trước thế kỉ XVII, người Bắc gọi hoa là bông, như người Việt miền Nam bây giờ vẫn thường gọi vậy. GS. Vượng cũng đồ rằng, nói đến đào ngày trước, phải nói đến đào Nhật Tân. Thành ngữ dân gian Hà Nội có câu: Tương Nhật Tảo, Đào Nhật Tân. Đấy là đặc sản của từng làng ven đô Hà Nội, và hiện nay những làng này đã chính thức trở thành đất Hà Nội - Thủ đô hiện đại.

GS. Vượng cho biết: Nhật Tân - trước đời Nguyễn (1802), là phường Nhật Chiêu (nghĩa chữ là bình minh, rạng đông). Xét về địa - văn - hóa, nơi ấy đón nắng ban mai sớm nhất, đón xuân cũng sớm nhất. Theo kinh nghiệm lâu đời của người làm vườn xưa, đất cận phù sa trồng đào là đắc địa. Người trai trồng đào của vùng này ngày xưa, cất công gánh các tảng đất màu phù sa sông Hồng, từ ngoài đê vào trong đê, dựng nên vườn: Công anh gánh đất trồng đào/Bây giờ anh để lọt vào tay ai? Đúng là nếu không có người trai gánh đất, sẽ chẳng thể có làng hoa, chợ hoa ngoại thành, rồi chợ hoa ven đô, tiến vào thành chợ hoa nội thành của thành phố trong sông: Hà Nội.

Vậy xa xưa, chợ hoa Hà Nội được gọi tên gì?

Lần giở cảo xanh trước đèn, GS. Vượng tra cứu trong Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỷ Thực lục quyển XV, chép rằng: chợ hoa ấy mang tên chợ Hoàng Hoa và được ghi chú là thuộc trại Ngọc Hà. Đó là tên gọi chợ hoa của đất Thăng Long từ 1516, năm thứ nhất niên hiệu Quang Thiệu đời Lê Chiêu Tông. Như thế chính sử đã chỉ đích danh làng hoa Ngọc Hà và chợ hoa cạnh đó có niên đại gần 500 năm cách ngày nay. Suy ra, chợ hoa phải có trước, rồi mới có cái cho nhà sử chép. Bởi vậy, xác định niên đại cho chợ hoa Hà Nội 500 năm, theo GS. Vượng, là cử chỉ khiêm tốn và phong nhã. Ông đã lưu ý, tên phường An Hoa với cánh đồng Bông (Yên Phụ) có từ thời Lý, thuở Chiếu dời đô (1010-1226), và dẫn thêm một ca dao về chợ hoa An Quang gần đấy: Phiên rằm chợ chính An Quang/Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua... Vẫn chưa thỏa, GS.Vượng đưa thêm sử liệu từ Toàn thư, Bản kỷ thực lục quyển X: "Năm Kỷ Dậu Thuận Thiên thứ hai (1429), tháng 3, ngày 20, vua (Lê Thái Tổ) hạ lệnh cho đô tổng quản cùng các quan viên ở các phường trong kinh thành: hiện nay, đất của các quận và phủ đệ, gia viên của các công hầu bách quan đều có phần nhất định, phải nên trồng cây, trồng hoa và rau đậu, không được bỏ hoang.

Thi sĩ xứ Huế Hoàng Phủ Ngọc Tường đánh giá cao nghiên cứu của GS. Vượng, bởi đã đưa niên đại cụ thể cho loại hình nhà vườn Việt Nam: 1429, loại hình mà kinh thành Huế xưa và Huế hôm nay còn rất thịnh! Ngoại suy tiếp tục, GS. Vượng còn đẩy lên đời Lý - Trần sự xuất hiện của gia viên (nhà vườn Việt). Ông cũng hứng khởi đề xuất một tưởng tượng lạ: Ức Trai tiên sinh Nguyễn Trãi (1380-1420) có thể đã có nhà vườn để di dưỡng tính tình: "Hé cửa đêm chờ hương quế lọt/ Quét hiên ngày lẹ bóng hoa tan". Đi sâu vào vườn thơ Ức Trai ta còn thấy muôn hồng nghìn tía hoa lá, cây cảnh đất Việt thuở nào: Tùng, trúc, thiên tuế, mộc, nhài, hòe, liễu, sen, mẫu đơn... Chỉ riêng hoa đào, Quốc âm thi tập của nhà thơ tâm sáng như sao Khuê này đã có tới 6 bài, chưa kể các bài thơ khác rơi rớt bóng hoa đào. Riêng một bài đào hoa còn ẩn hiện trong tâm thức nhiều kẻ yêu thơ Ức Trai: Một đóa đào hoa khéo tốt tươi/ Tường xuân mơn mởn thấy xuân cười/ Đông phong ắt có tình chăng nữa/ Kiện tiễn* mùi hương dễ động người. (*Đào Duy Anh chú: tiếng Việt cổ "kiện tiễn" là quý mến phi thường).

Có người bảo: Đào Nhật Tân gốc bên Tàu, mới hiện diện ở nước ta khoảng 300 năm! GS. Vượng phản bác: có giao lưu văn hóa thì có hội nhập cây ngoại sinh: có đào ta, đào phai, đào bích, đào phớt kép gốc Vân Nam! Không thể phủ nhận sự thực ấy, cũng như không phủ nhận được rằng: nếu chỉ đích danh chợ hoa Hàng Lược thì tuổi của nó chỉ khoảng trên dưới trăm năm đầu thời thuộc Pháp, vì đoạn đường ôm trọn chợ hoa đó vốn là lòng sông Tô Lịch bị lấp cuối thế kỷ XIX, và đoạn phố đó ngày trước vẫn đeo biển "phố sông Tô Lịch" và đoạn "cống chéo Hàng Lược" là khúc ngoặt của sông Tô chuyển mình chảy sang dọc đường Phan Đình Phùng - Quán Thánh, rồi đổ xuống Thụy Khuê, Bưởi...

Thương nhớ chợ hoa đào Hàng Lược, biết lịch sử chợ hoa ngoại ô và nổi máu phiêu du, mấy năm gần đây, chúng tôi rủ nhau phóng ôtô lên mạn ngược, cất công mua đào rừng Mộc Châu, hoa đào phai, chỉ có 5 cánh mỏng manh. Cành đào cắt từ vườn nhà to khỏe, vỏ cành màu nâu đen mốc trắng, hoa ngủ sâu im lìm trong nụ non lấm tấm chi chít khắp thân cành, thoạt trông khô khốc. Nhưng thật bất ngờ, những cành khô ấy về đến Hà Nội chiều 26, 27 Tết chưa hé bất kỳ một nụ phớt hồng nào, nhưng chỉ hai ngày sau, hoa sẽ rụt rè nở vài ba nụ hồng phơn phớt. Rồi 3 ngày Tết, toàn bộ cành hoa to khỏe sẽ bất ngờ nở tung hàng trăm bông 5 cánh hồng phấn dịu dàng. Bạn bè tôi, con gái, con rể, năm Mậu Tý vừa thêm cháu ngoại sẽ thân mật ngồi dưới bóng đào rừng phai ăn uống, chuyện vãn, mừng năm mới Kỷ Sửu và trong lòng tôi, dù không ghé chợ hoa Hàng Lược, vẫn nhớ nhung không chỉ chợ hoa truyền thống ấy mà nhớ tất cả những điểm bán hoa Hà Nội, với bao hoa đẹp và những chậu quất trĩu quả vàng...

Chẳng cần đi đâu xa, ở giữa lòng Hà Nội, ta vẫn có quyền nhớ chợ hoa Hàng Lược và thấy ông già nhà văn Nguyễn Tuân chí lý, khi hình dung chợ hoa đào Hàng Lược như một "dòng sông hoa đào", chảy từ Đào Nguyên ở núi Thiên Thai về giữa lòng Thủ đô. Và ông già Văn Cao nữa, khi còn ở cõi dương gian, ông đã từng mơ trong ca khúc Thiên Thai đầy lãng mạn của chính mình: Có một vườn đào dòng ngày tháng không tàn qua một lần...

PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Thái


Ý kiến của bạn
Tags: