“Chim gõ mõ xưa chưa rũ hết lụy tình”

15-02-2014 07:00 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - Có lần nhà thơ Lê Đạt trò chuyện, theo bà cô ruột (người đã nuôi ông từ bé) khẳng định, ông sinh năm 1928, tức tuổi con Rồng, chứ không phải năm 1929 như trong khai sinh, tuổi con Rắn.

Có lần nhà thơ Lê Đạt trò chuyện, theo bà cô ruột (người đã nuôi ông từ bé) khẳng định, ông sinh năm 1928, tức tuổi con Rồng, chứ không phải năm 1929 như trong khai sinh, tuổi con Rắn. Ông tự điều hòa và hóm hỉnh nhận tuổi mình gồm cả hai là Rồng - Rắn. Rồi ông nghĩ có lẽ vì vậy mà ông thích làm thơ từ khi còn nhỏ. Ông nhớ lại mình đã sớm ấp ủ mộng cách tân thơ cho dù chưa biết sẽ làm như thế nào và bắt đầu từ đâu. Quả nhiên sau hơn nửa thế kỷ âm thầm làm “phu chữ”, ông trở thành một “kỳ nhân” trên cánh đồng thơ Việt...

Nhà thờ Lê Đạt.

Nhà thờ Lê Đạt.

Tôi chợt nhớ buổi sáng ấy, vào Ngày thơ Việt Nam (21/2/2008, tức ngày Rằm tháng Giêng Mậu Tý), nghĩa là đúng hai tháng trước khi từ giã dương thế (21/4/2008), nhà thơ Lê Đạt đã có mặt để gặp gỡ bạn thơ nhiều thế hệ. Dường như linh tính báo trước, đây có thể là lần họp mặt cuối cùng của ông trong ngày “Hội thơ mùa xuân”. Tuy sức khỏe đã yếu nhưng ông vẫn cứ rổn rang với tiếng cười. Và dù đôi mắt đã ẩn dấu nét trầm buồn của tuổi 80, nhưng với thơ, ông luôn luôn trẻ trung. Giờ đây, mở lại tập thơ “U75 từ tình”, tôi đoán chắc chẳng mấy ai có thể quên những câu thơ thật sự kỳ ảo trong bài thơ Nụ xuân của ông:

“Nụ xuân chớp đông/ Hoa xuân chớp hồng/ Chũm cau tứ thì chúm chím/ Ú ớ mơ ngần một giấc chim xuân”.

Ấy vậy mà từ lâu, ông vẫn chỉ nhận là “phu chữ” và chưa bao giờ nhận mình là thi sĩ. Mặc dù số lượng sách của ông không nhiều, nhưng có lẽ bắt đầu từ tập thơ Bóng chữ (1994), ông đã phát hiện ra mình và tự nguyện lao động khổ sai vì sứ mệnh Lập từ. Một quan niệm mới đã được hình thành, lấp lánh từ những năm tháng xa xưa, giờ đã bật lên thành gien trội:

- Thơ tôi lấy chữ làm chính.

Rồi ông ví von rất thú vị rằng, mỗi người đều có một dạng vân tay khác nhau, vậy mỗi nhà thơ thứ thiệt cũng cần có một dạng “vân chữ”, không thể trộn lẫn. Có lần ông bày tỏ: - “Tôi đã nỗ lực rất nhiều để trở thành một kẻ rồ chữ. Người làm thơ hoạt động ở những vùng biên ngôn ngữ rất giống một người điên. Cái khác biệt giữa họ nằm ở chỗ, người điên thì vượt biên đi thẳng tới cõi vô thức hoàn toàn của đêm tối mù mịt và ở lại đó; còn người làm thơ thì loạng choạng bước một vài bước sang cõi vô thức thì ngừng lại và biết đằng sau quay, trở về cõi ngày của ý thức sau khi đã lượm dăm mảng đêm của vô thức để mở rộng địa giới của cõi chữ”.

Chính vì lẽ đó mà ông làm thơ rất nặng nhọc đúng với nghĩa một hình ảnh cày ải trên cánh đồng thơ như một “phu chữ” với đúng nghĩa của nó. Có những bài thơ ông phải mất vài ba tháng trời để hoàn chỉnh chỉ vì nhọc lòng với từ ngữ.

Rồi lại có lần ông nhấn mạnh với đồng nghiệp về trách nhiệm của nhà thơ với câu chữ rằng, hành động yêu nước nghiêm túc nhất của một công dân với tư cách một người làm thơ là cúc cung tận tuỵ bảo vệ và mở mang bờ cõi chữ của dân tộc mình. Nghĩ tưởng như thật cứng nhắc, nhưng ngẫm lại thấy sâu sắc vô cùng. Nếu ai đọc truyện ngắn Lá thư tuyệt mệnh của ông chắc không thể quên đoạn kết có viết: “Phàm mọi việc trên đời nhất thiết không nên vội, đặc biệt khi làm chữ và khi sắp tự tử”. Vậy là ông sống, chết trong hơi thở của chữ. Và ông đã làm việc đúng như ông nghĩ, chẳng ai có thể quên được những câu thơ độc đáo với chữ mới lạ của ông như:

“Tuổi lú lẫn, ngược nhầm ga trẻ dại/ Hay ngây ngô không biết lối về già/ Tha thẩn chữ ngã ba...”.

Hay như: “Mộng anh hường- tim môi em bói đỏ - Giàn trầu già - khua - những át cơ rơi” (Trích trong U75 từ tình).

Lại nhớ trong ngày thơ ấy, giọng đọc thơ của ông đã khàn đi đôi chút nhưng vẫn dày ấm và nồng nàn tình cảm toát lên từ con chữ:

“Tóc trắng tầm xanh qua cầu với gió/ Đùi bãi ngô non/ Ngo ngó sông đầy” (Quan họ).

Sự chơi chữ của ông đã có nhiều ảnh hưởng với các tác giả thơ trẻ sau này. Họ cũng dấn thân tập làm phu chữ như ông và không phải ai cũng thành công. Ông cho rằng cần phải chấp nhận cái nhí nhố của giới trẻ và ông nghĩ văn chương trẻ náo động tức là họ không bằng lòng với cái cũ, họ tìm cách chống lại cái cũ và có những màu sắc khác nhau là đương nhiên. Có thể nói, Bóng chữ đã tạo nên một phong cách thơ mới, hòa sắc trong nền thơ ca Việt Nam khi bước vào thế kỷ 21.

Có lần, khi đi bách bộ vào một buổi sáng quanh Hồ Gươm, tôi gặp ông đang có nét trầm tư bên gốc cây lộc vừng cổ. Ấy thế rồi, ông đọc ngay vài câu đúng với nghĩa cuồng say của một “phu chữ”: “Đời tốc hành một ga xanh sót lại/ Một góc tuổi mải tàu/ Thơ dại mãi/ Tìm nhà quên mất số lớn khôn” (Kết luận).

Chữ của ông gọi chữ, gợi hình làm người đọc xao xuyến chính vì cái “Bóng” của nó:

“Em về trắng đầy cong khung nhớ/ Mưa mấy mùa/ mây mấy độ thu” (Bóng chữ).

Sau này, khi chuẩn bị ra tập thơ “U75 từ tình”, một tập thơ tình dày dặn, ông vẫn tâm sự với bạn thơ rằng: - Tình đấy nhưng chữ làm khổ tôi.

Nhiều thập kỷ trôi qua, ông chỉ đau đáu làm mới chữ. Có những lúc ông tự coi mình là kẻ làm khổ chữ, bởi lẽ cái sự nâng lên đặt xuống, cái sự trân trọng con chữ đã làm ông mất ngủ. Thật may sao cái “U75 từ tình” ấy lại có những cái mới để đọc về những cái muôn đời cũ, đó là tình yêu ở cái “lão phu chữ” này:

“Anh đến mùa thu nhà em/ Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ/ Mà cho đấy rửa lông mày/ Nông nỗi heo may từ đó” (Thu nhà em).

Cuối cùng, cái công làm phu chữ ấy đã làm nên một chân dung thơ Lê Đạt sống động, đầy biến ảo vì tính giải phóng của con chữ, đồng thời lão phu chữ Lê Đạt là một sự nghiệp thơ xứng đáng với Giải thưởng Nhà nước về VHNT (2007) cho các tập thơ và truyện ngắn Bóng chữ; Ngó lời; Hèn đại nhân. Từ ngày là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957), ông đã có hơn nửa thế kỷ sáng tạo một phong cách thơ độc đáo, tạo dựng một thứ ánh sáng khác lạ. Cho dù mổ xẻ từ ngữ hoặc cân đong đo đếm từng chữ, nhưng bao giờ ông cũng tìm “Mã” giải phóng năng lượng cho ngôn ngữ Việt giàu có hơn. Chẳng những vậy mà ông đã quan niệm rạch ròi:

- Chữ bầu nên nhà thơ!    

  Vương Tâm


Ý kiến của bạn