Tôi sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, tham gia kháng chiến từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến ở thủ đô, rồi lang bạt nhiều nơi do điều động công tác nhưng vẫn có quê ngoại ở Thái Bình, lại là nơi tôi đã tham gia kháng chiến 9 năm, sống và chiến đấu với bà con trong vùng sau lưng địch.
Quê ngoại tôi ở huyện Thư Trì (cũ) nay đã thay đổi nhiều lắm, nhất là từ ngày đất nước đổi mới. Chị tôi rất hào hứng kể chuyện quê. Đời sống đã khá lên rất nhiều, bữa ăn không phải độn khoai khô - truyền thống lâu đời của vùng quê nghèo. Làng đã có điện, nhiều nhà đã có quạt máy, tivi. Đường nhựa về đến ngõ nhà. Ngôi nhà tường đất lợp rạ của anh chị tôi bây giờ đã là ngôi nhà gạch lợp ngói. Nhưng nhà thì vắng vẻ. Con cái rời làng cả, đứa ở Hà Nội dạy học, đứa lên thị xã buôn bán, đứa theo chồng vào Nam lập nghiệp. Ông anh rể đã mất; ở nhà còn mỗi bà chị tuổi cũng đã già.
Đã từ lâu con cái muốn đưa mẹ lên Hà Nội hoặc thị xã ở cùng. Chị tôi cũng lên chơi, ở thử vài lần nhưng lúc đầu không chịu được lại nằng nặc đòi về quê. Hỏi thì chị nói: “Lên trên này buồn lắm. Chúng nó đi làm cả ngày chỉ có một mình ở nhà nhưng khi đi làm chúng nó khóa trái cửa vì sợ sơ sểnh trộm vào khoắng đồ, cho nên như tù giam lỏng. Khi chúng nó ở nhà, muốn sang chơi hàng xóm nhưng ở thành phố mỗi nhà một căn đóng kín cửa không lê la tán chuyện như láng giềng quê ta. Ở quê tuy vắng vẻ nhưng cũng có mảnh vườn nhỏ chạy ra chạy vào chăm mấy cây rau đay, rau dền, dậu mùng tơi, cây chanh, cây đu đủ... đỡ cuồng chân. Vả lại ở quê còn có mộ ông bà, mộ ông ấy phải về chăm nom”. Cái lý của chị tôi xem ra khó lay chuyển, con cháu cũng phải để chị về lại quê.
Chợ hoa ngày Tết. |
Lúc đó chúng tôi vẫn ở khu chung cư Giảng Võ. Tuy mỗi nhà đều ở theo từng căn hộ nhưng có thể ra hành lang tán chuyện gẫu với nhau, rồi xuống đường là có hàng quán, muốn ăn thức gì đều có. Xem ra ở nhà tôi chị thấy thoải mái hơn vì nhà không có gì đáng giá để mất cho nên hai vợ chồng đi làm thì lại giao chìa khóa cho chị trông nhà ra đóng vào mở. Xem ra chị cũng rất cẩn thận, ít ra khỏi nhà nhưng thỉnh thoảng cũng lân la nơi này nơi khác trong khu phố. Chị không mua sắm gì vì không có gì cần mua sắm, chỉ đi xem, đi nghe để biết. Thế rồi một hôm chị nói với tôi: “Chúng mày ở trên này ăn chơi quá chừng. Tao thấy mấy đứa ngồi chơi với nhau uống mấy vại bia với đồ nhắm thừa thãi ê hề mà khi trả tiền bằng cả nhà tao làm ba sào khoai một vụ!”. Tôi cũng nghe rồi ậm ừ cho qua chuyện, nghĩ bụng chị tôi cứ lấy “thóc, khoai bản vị” cái gì cũng tính ra tiền bán rổ khoai ở chợ thì chị tôi còn sốt ruột. Đấy là chị tôi mới tới mấy quán bia cỏ vỉa hè chứ vào khách sạn mà xem họ ăn chơi thì còn sốt ruột tới đâu! Hai vợ chồng tôi mang “lý luận” kinh tế ra giải thích như họ làm ra thì phải để cho họ tiêu và có tiêu thụ mới có thể đẩy mạnh sản xuất, nhưng xem ra vẫn không làm cho chị tôi thông suốt. Nhưng khi chị tôi hỏi “Họ lấy tiền ở đâu ra mà tiêu pha như thế” thì chúng tôi đành chịu, và chị tôi buồn ra mặt.
Tôi thông cảm với chị tôi sinh ra và lớn lên ở vùng quê nghèo, tuy bây giờ đã khá hơn rất nhiều từ ngày giao đất cho hộ, khoán sản và đổi mới nhưng vẫn phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới làm ra đấu gạo, rổ khoai. Tiền thức ăn hai bữa, tiền sắm bộ quần áo mới, sách vở cho cháu đầu năm học khi chúng còn ở nhà, rồi tiền phúng viếng, mừng cưới và trăm khoản chi khác đều phải trông vào hạt thóc, củ khoai cho nên “thóc, khoai bản vị” cũng là cách so sánh của chị tôi cũng như của nhiều người nông dân khác. Và điều băn khoăn của chị tôi với cái “lý sự quê mùa” của người lao động xem ra khó có gì bác bỏ được.
Quê tôi ở gần ngay cái cột cây số đường đi Tân Đệ mà năm 1945 nghệ sĩ Võ An Ninh đã chụp cảnh những người đồng hương chết đói đầy đường. Bây giờ đời sống mọi mặt đã khác trước nhiều lắm. Hoàn cảnh sống của chị tôi, nhờ con cái, cũng khá hơn những bà con ở quê. Cuộc sống của chị tôi cũng đã hòa nhập với người thành phố, nhưng tâm trạng của chị tôi vẫn gắn với người nhà quê, vẫn so sánh theo cách của những người nhà quê, tuy có phần không thích hợp nhưng lại hợp lý. Nghe cái lý sự của chị tôi “người nhà quê”, tôi lại chợt nhớ tới sự phân tích của một học giả về tâm lý khi ông nói: “Sự đau khổ của người nghèo không chỉ do cái thiếu, cái nghèo, mà còn do cái dư thừa, phung phí của kẻ khác”.
Do đó tôi thông cảm với tâm sự khi vui mừng cũng như buồn bực của chị tôi - “Người nhà quê” trong thời kỳ đất nước đổi mới.
Nhà báo Hữu Thọ