Trong những năm qua, công tác Dân số - KHHGĐ tỉnh Cao Bằng với những chính sách dân số đã đi vào cuộc sống và trở thành một cuộc vận động xã hội rộng lớn huy động sự tham gia, vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ban ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cộng đồng dân cư và từng thành viên trong xã hội. Kết quả công tác Dân số - KHHGĐ đã góp phần tích cực vào việc hoàn thành các mục tiêu phát triến kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống người dân trong tỉnh.
Nhận thức về vai trò và sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác Dân số - SKSS/KHHGĐ cũng như nhận thức của người dân về thực hiện chính sách Dân số - KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản được nâng lên rõ rệt, đa số nhân dân đã chấp nhận thực hiện quy mô gia đình nhỏ ít con để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; quan niệm về hôn nhân, gia đình, sinh đẻ đã có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực. Các mô hình cung cấp dịch vụ KHHGĐ đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu đa dạng, thuận tiện và an toàn cho người sử dụng.
Mặc dù Cao Bằng đã khống chế được tốc độ gia tăng dân số, năm 2013 đã đạt dưới mức sinh thay thế (2,05 con/1 phụ nữ). Tuy nhiên, kết quả trên không được bền vững, ổn định chỉ sau một thời gian ngắn, từ năm 2014 tổng tỷ suất sinh lại tăng cao trở lại, cao hơn mức sinh thay thế. Hiện nay, Cao Bằng đang là một trong 33 tỉnh có mức sinh cao của cả nước.
Theo đó tại tỉnh Cao Bằng, mức sinh có sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng: Theo số liệu tổng điều tra dân số và nhà ở mới nhất, tổng tỷ suất sinh trên địa bàn toàn tỉnh là 2,43 con/phụ nữ, trong đó khu vực thành thị là 2,06 con/phụ nữ, khu vực nông thôn là 2,45 con/phụ nữ.
Giữa các huyện, thành phố có sự chênh lệch mức sinh, nhóm có mức sinh thấp, dưới 2,0 con/phụ nữ (Thành phố và huyện Hạ Lang); nhóm có mức sinh cao, trên 2,2 con/phụ nữ (Hòa An, Bảo Lâm, Trà Lĩnh, Quảng Uyên, Nguyên Bình, Hà Quảng, Thạch An, Trùng Khánh); nhóm gần đạt mức sinh thay thế, từ 2,0 - 2,2 con/phụ nữ (Thông Nông và Phục Hòa).
Đặc biệt, theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, Việt Nam hiện có 16 dân tộc có số dân dưới 10.000 người. Trong đó, dân tộc Lô Lô là nhóm dân tộc dưới 5.000 người. Kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, dân số dân tộc Lô Lô của cả nước là 4.541 người thì đã có 2.373 người Lô Lô sống tại Cao Bằng, chiếm 52,3% dân số dân tộc Lô Lô của cả nước.
Kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, dân số dân tộc Lô Lô của cả nước tăng lên là 4.827 người, trong đó 59% người Lô Lô sống tại Cao Bằng với số dân là 2.861 người. Như vậy, trong 10 năm giữa 2 cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở, dân số dân tộc Lô Lô của cả nước có tăng lên nhưng vẫn là nhóm dân tộc dưới 5.000 người. Do vậy việc tăng cường triển khai các hoạt động điều chỉnh mức sinh nhằm bảo vệ, phát triển và nâng cao chất lượng dân số dân tộc Lô Lô thực sự rất cần thiết.
Phía Sở Y tế tỉnh Cao Bằng cũng nhận định, công tác dân số còn một số khó khăn, thách thức như: Mức sinh giảm nhưng chưa bền vững và không đồng đều giữa các vùng; chênh lệch đáng kể mức sinh giữa các vùng, một số địa phương vùng sâu, vùng xa còn có tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống; số con trung bình của 1 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có nhiều biến động và tăng trở lại; tỷ số mất cân bằng giới tính khi sinh tăng, tỉnh Cao Bằng đã chuyển sang giai đoạn già hóa dân số…
Trong các năm tới, Ban Chỉ đạo công tác Dân số tỉnh Cao Bằng đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như: Tiếp tục củng cố, tăng cường hoạt động của Ban Chỉ đạo công tác Dân số các cấp; chuyển trọng tâm công tác dân số từ Dân số - KHHGĐ sang dân số và phát triển; phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống 0,87%, tỷ số giới tính khi sinh 110 bé trai/100 bé gái; tỷ lệ trẻ em mới sinh được sàng lọc sơ sinh 75%. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế, nâng cao chất lượng dân số và chăm sóc sức khỏe người cao tuổi...
Theo Ban Chỉ đạo công tác dân số tỉnh Cao Bằng, bài học kinh nghiệm của địa phương trong thực hiện Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng là cần huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị và cộng đồng dân cư, đặc biệt là vai trò của người đứng đầu là yếu tố quyết định tới thành công của việc thực hiện chính sách dân số. Tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên có ảnh hưởng sâu rộng, lan tỏa đến việc thực hiện các mục tiêu dân số.
Tuyên truyền, giáo dục kết hợp với cung cấp dịch vụ KHHGĐ thường xuyên, liên tục phù hợp với từng vùng, đối tượng theo từng giai đoạn là một trong những nhân tố quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu giảm sinh.
Vai trò của đội ngũ cán bộ dân số xã, cộng tác viên dân số, tuyên truyền viên các ban ngành đoàn thể với phương châm "Đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng" kiên trì thường xuyên, liên tục tuyên truyền vận động đến từng cặp vợ chồng, từng gia đình đã chuyển tải các thông điệp dân số lan tỏa, thấm sâu trong toàn xã hội đã góp phần không nhỏ vào thành công của chương trình Dân số - KHHGĐ trong những giai đoạn trước.