Chảy máu mũi là một triệu chứng của rất nhiều bệnh, biểu hiện bằng chảy máu ra cửa mũi trước hoặc chảy xuống dưới họng miệng qua cửa mũi sau. 60% trên tổng số người trưởng thành có ít nhất là một lần chảy máu mũi, nhưng chỉ khoảng 6% cần can thiệp y tế.
Để hiểu thêm chúng ta cùng nhìn qua hệ thống mạch máu nuôi dưỡng mũi:
Mạch máu chủ yếu cho hốc mũi là động mạch bướm - khẩu cái (một nhánh cuối của động mạch hàm trong thuộc về hệ tuần hoàn của động mạch cảnh ngoài).
Động mạch bướm khẩu cái: đi qua rãnh bướm khẩu cái chui qua lỗ bướm khẩu cái vào hốc mũi và chia thành động mạch mũi sau giữa đi đến vách ngăn mũi sau bên đi đến mũi bên.
Các nhánh của động mạch cảnh trong tưới máu cho phần trên của hốc mũi gồm: động mạch sàng trước và sàng sau (xuất phát từ động mạch mắt và đi qua các rãnh nhỏ xương sàng vào hốc mũi).
Vùng nối giữa các nhánh của động mạch cảnh trong và cảnh ngoài, nằm ở 2 bên vách ngăn - Điểm mạch Kisselback: điểm mạch này rất dễ chảy máu.
Nguyên nhân
Nguyên nhân tại chỗ có thể do viêm nhiễm: viêm mũi cấp, viêm xoang cấp, viêm loét mũi hoặc do khối u: U lành tính: u máu, polip chảy máu, u xơ vòm mũi họng,
U ác tính: ung thư mũi, ung thư sàng hàm, ung thư vòm mũi họng (PC).
Ngoài ra còn do chấn thương:
Ngoáy mũi, chấn thương do tai nạn giao thông, tai nạn sinh hoạt.
- Nguyên nhân toàn thân:
Bệnh về máu và thành mạch: Bệnh bạch cầu cấp, mạn tính. Bệnh giảm tiểu cầu. Bệnh ưa chảy máu. Suy tủy. Rối loạn các yếu tố đông máu. Tăng huyết áp, xơ vữa mạch máu.
Các bệnh toàn thân khác
Sốt xuất huyết, bệnh Denker, các bệnh suy gan, thận mạn tính
- Chảy máu mũi vô căn: Theo tài liệu nghiên cứu tại Việt Nam, khoảng 70% số bệnh nhân chảy máu mũi là vô căn (không tìm thấy nguyên nhân).
Điểm mạch Kisselbach. |
Phân loại mức độ
Điều trị chảy máu mũi thường phải dựa vào phân loại mức độ:
- Chảy máu mũi nhẹ: Lượng chảy thường ít, chảy nhỏ giọt và có xu hướng tự cầm. Thường là chảy máu ở điểm mạch.
- Chảy máu mũi vừa: Thành dòng đỏ tươi, tràn ra mũi trước hay xuống họng, có xu hướng kéo dài. Thể trạng toàn thân ít ảnh hưởng.
- Chảy máu mũi nặng: Thường do vỡ các mạch lớn, mức độ mất máu nhiều hoặc chảy kéo dài, tái diễn nhiều lần. Toàn trạng ảnh hưởng rõ: mạch nhanh, huyết áp hạ, vã mồ hôi, mặt tái nhợt.
Hoặc dựa vào vị trí chảy máu:
- Chảy máu qua mũi trước:
Chảy máu ở điểm mạch Kisselback: dễ thấy nhất, hay gặp.
Chảy ở cuốn dưới.
Chảy ở khe giữa.
- Chảy máu mũi sau: cũng để bệnh nhân ở tư thế trên và quan sát thấy máu không chảy qua lỗ mũi trước mà lại nhổ ra máu.
Ðiều trị
- Chảy máu nhẹ: Cách thường sử dụng là dùng 2 ngón tay bóp nhẹ cánh mũi trong 5 phút.
- Chảy vừa và nhiều thì nhét bấc mũi trước, mũi sau.
Kết hợp với thuốc
Tiêm Transamin cho bệnh nhân 6 giờ một ống.
Tiêm Vitamin K cho bệnh nhân.
Tuỳ theo lượng mất máu mà đặt ra chỉ định truyền máu hay không.
Hiện nay trên thế giới, người ta có thể dùng dụng cụ cầm máu bằng bóng nước (Ballon) bằng chất dẻo có 2 van khác nhau. Dụng cụ này được đưa vào mũi qua cửa mũi trước qua hốc mũi đến cửa mũi sau. Bóng nước số 1 được bơm căng và kéo ra trước chèn kín cửa mũi sau. Sau đó bóng nước số 2 được bơm đầy chèn kín hốc mũi trước.
Nếu không cầm có thể thắt các động mạch:
- Động mạch cảnh ngoài.
- Động mạch hàm trong.
- Động mạch sàng trước.
Ngày nay dùng đông điện dưới sự hướng dẫn của nội soi để cầm máu đã được áp dụng rộng rãi.
Các động mạch có thể gây tắc mạch qua thông mạch chọn lọc đem lại kết quả tốt.
Ảnh minh họa (nguồn Internet). |
Phòng bệnh
Muốn xử trí cầm máu đúng phải biết đánh giá mức độ chảy máu.
Nhét bấc đúng kỹ thuật là biện pháp hữu hiệu có thể kiểm soát hầu hết mọi trường hợp chảy máu mũi.
Cần tuyên truyền giáo dục mọi người biết phương pháp sơ cứu đơn giản để cấp cứu các trường hợp chảy máu mũi nhẹ (và vừa) có hiệu quả.
PGS.TS. Phạm Trần Anh - TS. Phạm Thị Bích Ðào