Chẩn đoán đồng nhiễm lao trên bệnh nhân HIV

28-11-2024 12:30 | Y tế
google news

SKĐS - Thực tế trên lâm sàng, bệnh lao thường đồng nhiễm với HIV. Lao là bệnh nhiễm trùng cơ hội thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong cao nhất ở người nhiễm HIV.

Người nhiễm HIV có nguy cơ mắc lao cao cấp hơn 19 lần so với người không nhiễm HIV và có nguy cơ mắc lao kháng thuốc cao. Năm 2015, trên thế giới có khoảng 390 nghìn người nhiễm HIV/AIDS chết do lao, chiếm 25% số trường hợp tử vong của người bệnh AIDS. Vì vậy cần phát hiện vấn đề này bằng xét nghiệm để chẩn đoán.

Với khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3957/QÐ-BYT ngày 23/9/2015 xây dựng Mô hình lồng ghép quản lý, cung cấp dịch vụ HIV và lao tại cơ sở y tế tuyến huyện, xã nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc người nhiễm HIV và lao, góp phần giảm chi phí trong quản lý và điều trị người bệnh.

Mục đích của việc lồng ghép là làm giảm lây nhiễm vi khuẩn lao và HIV; giảm tỷ lệ số người bệnh mắc và chết do lao, do HIV và do các bệnh liên quan HIV; cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe của y tế cơ sở; tăng cường quản lý những trường hợp đồng nhiễm lao và HIV theo tiêu chí lấy người bệnh là trung tâm.

Chẩn đoán đồng nhiễm lao trên bệnh nhân HIV- Ảnh 1.

Nhân viên y tế phải chủ động tư vấn, đề xuất và cung cấp dịch vụ xét nghiệm HIV cho người mắc bệnh lao để giúp cho việc phát hiện và có biện pháp xử trí phù hợp.

Trước khi xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV cho các bệnh nhân lao, cần tư vấn với hình thức phù hợp tùy theo từng đối tượng và điều kiện cụ thể như: tư vấn theo nhóm gồm nhóm phạm nhân, can phạm; nhóm học viên các trung tâm chữa bệnh, dạy nghề...; tư vấn cho từng cá nhân; nên sử dụng tờ rơi, tờ tranh bướm tuyên truyền... trong quá trình tư vấn.

Nội dung tư vấn cần căn cứ vào sự tìm hiểu về tiền sử thực hiện xét nghiệm chẩn đoán HIV của người bệnh và các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV; giải thích lý do và lợi ích của việc xét nghiệm HIV để chẩn đoán, điều trị và dự phòng đối với người bệnh.

Các thông tin cần được cung cấp cho người bệnh như: người mắc bệnh lao cũng có khả năng bị nhiễm HIV, việc chẩn đoán HIV sớm và điều trị thích hợp bệnh lao và nhiễm HIV sẽ cho kết quả tốt hơn điều trị lao đơn thuần; xác nhận tính tự nguyện và bảo mật của xét nghiệm chẩn đoán HIV; khẳng định việc từ chối xét nghiệm HIV sẽ không ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận của người bệnh đối với những dịch vụ khám chữa bệnh khác; giới thiệu về dịch vụ chuyển tiếp nếu như kết quả xét nghiệm là dương tính với HIV; đồng thời giải đáp những thắc mắc, băn khoăn của người bệnh.

Xét nghiệm chẩn đoán HIV được thực hiện khi người bệnh đồng ý, họ sẽ ký một bản cam kết và bản cam kết này được lưu lại trong hồ sơ người bệnh. Máu của người bệnh được thu thập và gửi đến cơ sở y tế có khả năng thực hiện test sàng lọc tại các đơn vị PITC thuộc chương trình chống lao.

Nếu test sàng lọc có kết quả dương tính, mẫu máu sẽ được tiếp tục gửi đến phòng xét nghiệm được phép khẳng định HIV gần nhất thực hiện. Thông thường kết quả sẽ có khoảng 7 - 10 ngày sau khi mẫu máu được gửi xét nghiệm.

Tùy theo kết quả xét nghiệm cuối cùng, nhân viên y tế nơi tư vấn sẽ căn cứ vào kết quả âm tính hay dương tính để tiếp tục tư vấn cho người mắc bệnh lao. Nếu kết quả xét nghiệm chẩn đoán HIV âm tính, cần thông báo cho người bệnh biết kết quả xét nghiệm; tư vấn giúp người bệnh hiểu đúng về kết quả xét nghiệm và ý nghĩa của giai đoạn cửa sổ, đồng thời khuyên người bệnh nên xét nghiệm lại sau 6 đến 12 tuần ở một trung tâm tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện nếu nghi ngờ có yếu tố nguy cơ.

Phải tư vấn cho người bệnh về nguy cơ lây nhiễm HIV và biện pháp dự phòng, kể cả khuyên bạn tình của họ cần được xét nghiệm chẩn đoán HIV; ngoài ra giới thiệu chuyển tiếp người bệnh đến các dịch vụ can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV nếu họ có yêu cầu.

Nếu kết quả xét nghiệm chẩn đoán HIV dương tính, phải thông báo kết quả xét nghiệm HIV cho người bệnh biết, giải thích cho người bệnh về kết quả xét nghiệm; cần hỗ trợ tinh thần, tâm lý cho người bệnh; tư vấn cho người bệnh hiểu về sự cần thiết của việc chăm sóc và điều trị HIV, thông tin các dịch vụ hỗ trợ sẵn có tiếp theo cho người bệnh.

Tư vấn các việc cần thiết ngay cho bệnh nhân như tiếp tục điều trị bệnh lao, dự phòng các bệnh lây truyền cho bản thân và người thân; trao đổi với người bệnh cách tiết lộ kết quả HIV dương tính cho vợ, chồng, người thân... và động viên tư vấn những người này nên thực hiện xét nghiệm HIV tự nguyện.

Đồng thời giới thiệu, hội chẩn với cơ sở điều trị, tạo điều kiện chuyển tiếp người bệnh đến các dịch vụ chăm sóc HIV để được đăng ký điều trị bằng thuốc ARV (antiretroviral) sớm nhất nếu có thể và điều trị dự phòng bằng Cotrimoxazol.

Ngoài ra sau khi giới thiệu cũng cần theo dõi hỗ trợ tiếp tục để chắn chắn người bệnh tiếp cận được dịch vụ. Nếu kết quả xét nghiệm chẩn đoán HIV không xác định được, cần giải thích để giúp người bệnh hiểu đúng về kết quả xét nghiệm; hỗ trợ tinh thần, tâm lý cho người bệnh; tư vấn về các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV; đồng thời hẹn thời gian xét nghiệm lại sau 14 ngày.

Chẩn đoán đồng nhiễm lao trên bệnh nhân HIV- Ảnh 3.

Trước khi xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HIV cho các bệnh nhân lao, cần tư vấn với hình thức phù hợp tùy theo từng đối tượng và điều kiện cụ thể.

Trên 95% bệnh nhân được điều trị dự phòng lao tiềm ẩn và đồng nhiễm HIV/Lao

Theo Cục Phòng, chống HIV/AIDS, tính đến tháng 6/2024, trên toàn quốc có 181.558 người nhiễm HIV đang được điều trị bằng thuốc kháng virus (ARV), trong đó có 2.466 trẻ em dưới 15 tuổi, tại hơn 500 cơ sở y tế ở 63 tỉnh, thành phố. Số người được cấp thuốc ARV thông qua bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 119.055 người, chiếm trên 66%.

- Chương trình điều trị ARV tại Việt Nam đã nhận được đánh giá cao từ cộng đồng quốc tế với những thành tựu cụ thể như:

  • Tỷ lệ người bệnh HIV có kết quả xét nghiệm tải lượng HIV (TLHIV) dưới ngưỡng ức chế (< 1000 cp/ml) đạt trên 97%.
  • Tỷ lệ người bệnh duy trì điều trị ARV đạt trên 95%.
  • Trên 95% bệnh nhân được điều trị dự phòng lao tiềm ẩn và đồng nhiễm HIV/Lao.
  • Tất cả người bệnh đang điều trị ARV đều được sàng lọc viêm gan C, và những người nhiễm virus viêm gan C được điều trị với tỷ lệ khỏi bệnh đạt trên 96% (với thuốc điều trị do Dự án Quỹ Toàn cầu hỗ trợ).
  • Gần đây, các cơ sở điều trị đã bắt đầu triển khai sàng lọc, quản lý và điều trị các bệnh không lây nhiễm như cao huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid máu, đái tháo đường, sức khỏe tâm thần.
  • Công tác quản lý và điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con cũng được tăng cường, bao gồm xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai để phát hiện và điều trị ARV kịp thời, giúp trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV được điều trị dự phòng và tư vấn chăm sóc. Tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con hiện duy trì ở mức rất thấp, dưới 1,9%.
  • Cung cấp các dịch vụ chăm sóc và điều trị cho trẻ em và vị thành niên nhiễm HIV, bao gồm tư vấn công khai tình trạng nhiễm HIV và hướng dẫn sức khỏe sinh sản, an toàn tình dục tại các cơ sở điều trị.

Trong thời gian tới, các giải pháp về chính sách và hướng dẫn, chuyên môn kỹ thuật, cung ứng thuốc và sinh phẩm, đảm bảo nguồn lực tài chính bền vững hướng tới việc nâng cao hiệu quả điều trị HIV, đảm bảo quyền lợi cho người bệnh và góp phần vào mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030.

Vì sao tỉ lệ tái nhiễm lao ở người đồng nhiễm lao/HIV lại cao?Vì sao tỉ lệ tái nhiễm lao ở người đồng nhiễm lao/HIV lại cao?

SKĐS - Lao là bệnh cơ hội phổ biến trên bệnh nhân HIV/AIDS. Khi bệnh nhân đồng nhiễm lao/HIV làm cho vấn đề điều trị càng khó khăn, phức tạp...


BSCKII Trần Thị Kim Anh
Trưởng khoa Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Đa khoa Hà Đông
Ý kiến của bạn