Chẩn đoán đau bụng cấp tính ở trẻ em

06-09-2018 09:18 | Đời sống
google news

SKĐS - Đau bụng là một biểu hiện rất thường gặp ở trẻ em. Có thể là những bệnh trong ổ bụng, có thể là những bệnh ngoài ổ bụng hoặc những bệnh toàn thân như nhiễm khuẩn, siêu vi khuẩn, rối loạn chuyển hóa...

Đau bụng là một biểu hiện rất thường gặp ở trẻ em. Có thể là những bệnh trong ổ bụng, có thể là những bệnh ngoài ổ bụng hoặc những bệnh toàn thân như nhiễm khuẩn, siêu vi khuẩn, rối loạn chuyển hóa... Khi trẻ bị đau bụng, nhiều bậc cha mẹ quá lo lắng hoặc chủ quan ít chú ý, hoặc tự động điều trị... Khi bệnh không khỏi mới đưa đi bệnh viện gây khó khăn cho việc chẩn đoán và điều trị, gây ra những biến chứng nguy hiểm. Bài viết dưới đây chúng tôi xin nêu những căn nguyên, biểu hiện đau bụng cấp ở trẻ em để bạn đọc nhận biết và đưa trẻ đến bệnh viện cấp cứu và xử lý kịp thời.

Viêm ruột thừa cấp: Trẻ đau bụng tự phát khu trú ở hố chậu phải, kèm theo sốt vừa và nhẹ (38oC), rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, nôn), đau kèm theo phản ứng thành bụng khi sờ nắn vào hố chậu phải.

Lồng ruột cấp tính: Trẻ đau bụng với những cơn đau ngắt quãng, đau từng cơn, mỗi cơn đau khóc thét, uốn người kèm theo nôn, da tái nhợt, có khi nôn hoặc đi ngoài phân lẫn nhầy và máu. Bệnh hay gặp ở trẻ dưới 2 tuổi.

Chẩn đoán lồng ruột bằng bơm barite.

Xoắn thừng tinh ở trẻ em nam: Trẻ đột ngột đau tinh hoàn kèm theo biểu hiện tăng thể tích tinh hoàn và rất đau khi sờ, đụng vào. Xoắn thừng tinh là một bệnh cảnh cần cấp cứu ngoại khoa can thiệp ngay. Nếu điều trị muộn, tinh hoàn có thể bị hoại tử thành mủ, thoát ra khỏi bìu qua đường rò hoặc hoàn toàn bị teo trong vài tháng.

Xoắn u nang buồng trứng ở bé gái: Trẻ đau vùng bụng kèm theo nôn. Sờ nắn thấy một u ở vùng khung chậu - bụng.

Thoát vị bẹn nghẹt: Thắt nghẹt luôn là mối đe dọa đối với thoát vị bẹn ở trẻ em. Nguy cơ thắt nghẹt cao ở trẻ sơ sinh, trẻ sinh non. Khi bị nghẹt khối thoát vị căng và đau, sưng vùng bẹn hoặc bìu. Sờ, nắn vào trẻ phản ứng khóc to. Trong thoát vị bẹn ở trẻ trai các tạng sa xuống về phía bìu, còn ở trẻ gái các tạng sa về phía môi lớn. Thoát vị bẹn nghẹt nếu không xử trí kịp thời sẽ gây tổn thương nặng đối với tạng bị nghẹt, đặc biệt hoại tử vành quai ruột nguy hiểm đến tính mạng.

Bệnh động kinh thể bụng: Trẻ đau bụng, nhiều khi đau dữ dội, đau không theo chu kỳ, lúc đau lúc không, lúc sốt, đôi khi liên quan đến trạng thái thần kinh. Bệnh thường khó phát hiện, muốn chẩn đoán chính xác để điều trị, bạn cần đưa trẻ đến bệnh viện làm xét nghiệm, đặc biệt là phải điện não đồ.

Giun chui ống mật: Trẻ đột ngột đau bụng dữ dội kèm nôn nhiều, có trẻ còn nôn ra giun. Trẻ đau từng cơn, đau lăn lộn, vật vã; có trẻ phải ôm bụng hoặc nằm phủ phục, chổng mông để bớt đau hoặc bắt bế vác lên vai, bụng tỳ vào vai mẹ chạy quanh nhà. Rồi đột nhiên cơn đau dịu đi, trẻ mệt mỏi, vã mồ hôi, bụng hơi trướng, có phản ứng ở 1/4 bụng trên - phải, dưới bờ sườn phải và điểm dưới mũi ức rất đau, có thể thấy khối u (búi giun) ở vùng thượng vị. Đây là một trong những trường hợp đau bụng thường gặp ở trẻ 3-7 tuổi. Giun đũa chui qua cơ vòng Oddi vào đường dẫn mật. Số lượng giun lên ống mật có thể chỉ một, vài con nhưng có trường hợp tới hàng trăm con.

Tắc ruột do bã thức ăn: Trẻ đau bụng kèm theo nôn, bí trung đại tiện. Cơn đau bụng xuất hiện có thể xảy ra đột ngột và dữ dội; kéo dài khoảng 2-3 phút, giảm dần rồi lại đau trở lại; lúc đầu cơn đau thưa, sau đó cường độ ngày càng tăng và càng mau; điểm đau trên rốn, quanh rốn bên trái hoặc bên phải bụng, vùng chậu... sau đó lan tỏa nhanh chóng ra toàn bụng. Tắc ruột còn có thể gặp ở trẻ bị nhiễm giun nhiều, cơ thể gầy yếu. Các trường hợp tắc ruột do bã thức ăn phải xử trí can thiệp bằng phương pháp phẫu thuật để lấy khối bã thức ăn ra mới khỏi được, vì vậy cần thận trọng trong việc ăn uống và nên tẩy giun định kỳ 6 tháng - 1 năm/1 lần.

Lời khuyên của thầy thuốc

Trẻ em bị đau bụng cần được theo dõi sát sao và nếu gặp một trong các trường hợp đau bụng cấp như trên cần đưa trẻ đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Không tự ý dùng thuốc hoặc tiêm thuốc giảm đau cho trẻ làm lu mờ các triệu chứng của bệnh.

ThS. Lê Thị Hương
Ý kiến của bạn