Chăm sóc mắt cho trẻ bị tật khúc xạ thế nào?

07-11-2014 11:52 | Đời sống
google news

Chức năng của mắt là giúp cho chúng ta nhìn rõ được những vật ở xung quanh. Mắt bình thường là mắt mà hình ảnh của vật hội tụ đúng trên võng mạc và khi đó thì vật mới được nhìn rõ.

Chức năng của mắt là giúp cho chúng ta nhìn rõ được những vật ở xung quanh. Mắt bình thường là mắt mà hình ảnh của vật hội tụ đúng trên võng mạc và khi đó thì vật mới được nhìn rõ. Nếu hình ảnh của vật không rơi đúng vào võng mạc do nguyên nhân nào đó khiến mắt không có khả năng hội tụ một cách chính xác những tia sáng đi vào mắt thì gọi là mắt có tật khúc xạ.

Tật khúc xạ ở trẻ em hay gặp gồm: cận thị, viễn thị, loạn thị, hoặc có thể mắc tật khúc xạ phối hợp: cận - loạn thị hoặc viễn - loạn thị, hoặc lệch khúc xạ giữa 2 mắt.

Tầm quan trọng của việc chăm sóc mắt bị tật khúc xạ

Tật khúc xạ làm cho mắt không nhìn được bình thường, thị lực giảm ở mức độ khác nhau tùy theo mức độ và loại khúc xạ.

Tật khúc xạ thị nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân như giảm khả năng lao động và sinh hoạt bình thường, có thể tác động đến sự phát triển tâm lý của trẻ.

Khi trẻ có biểu hiện như: nheo mắt, nghiêng đầu, vẹo cổ khi nhìn, đôi khi có thể có nhức đầu, nhức mắt... Trong lớp học, trẻ không nhìn rõ trên bảng, hay cúi đầu lại gần sách để nhìn cho rõ, hay chép nhầm bài, đọc nhầm chữ, thậm chí còn có thể ảnh hưởng đến chất lượng học tập... có thể nghi ngờ trẻ mắc tật khúc xạ.

Khi đó cần đến những cơ sở chuyên khoa mắt, tốt nhất là tại các bệnh viện chuyên sâu với chuyên môn tốt và máy móc hiện đại để phát hiện chính xác trẻ mắc tật khúc xạ loại gì, từ đó điều chỉnh và cấp đơn kính, đưa ra phương hướng theo dõi, chăm sóc và điều trị cho trẻ lâu dài. Các trường học tổ chức khám sàng lọc, chuyển những cháu có vấn đề về khúc xạ đến các cơ sở chuyên khoa. Tùy từng loại tật khúc xạ và mức độ khác nhau mà cho trẻ đeo kính thường xuyên hay không. Để điều chỉnh tật khúc xạ, người ta thường đeo kính tùy thuộc vào loại khúc xạ mắc phải.

Chỉnh kính: Chỉnh kính là lựa chọn tốt nhất. Mặc dù trẻ em ban đầu có thể từ chối chấp nhận kính, trẻ sẽ thích đeo kính khi nhận thấy nhìn tốt hơn với kính.

Rất nhiều phụ huynh có tâm lý hoang mang khi biết con em mình mắc tật khúc xạ và coi như một bệnh lý đáng lo. Tuy nhiên, một người mắc tật khúc xạ khi đeo kính vẫn có thể sinh hoạt, làm việc bình thường.

Các nhà khoa học ghi nhận 80% lượng thông tin mà não thu nhận được là thông qua thị giác, do đó việc đeo kính đúng thường xuyên và sớm không những giúp thị giác của trẻ phát triển mà còn phát triển các hoạt động trí não của trẻ.

Trẻ bị tật khúc xạ nên được khám định kỳ 6 tháng một lần để thay kính phù hợp với những thay đổi của mắt.

Ngoài ra còn có một quan niệm sai về đeo kính khi bị tật khúc xạ là trẻ không dám đeo kính hay không đeo thường xuyên vì sợ tăng độ hoặc sợ xấu khi đeo kính. Một số em đeo kính không đúng độ do khám hoặc mua kính ở những cơ sở hoặc tiệm kính không được đào tạo trường lớp.

Thuốc mắt: Trẻ bị tật khúc xạ có thể cần bổ sung thuốc nhỏ mắt hoặc thuốc uống, giúp cho mắt khỏe mạnh hơn. Trẻ đang thời kỳ phát triển nên các yếu tố vi lượng rất cần thiết cho thị giác, nhưng phải có sự kiểm soát của bác sĩ. Nhiều cách để sử dụng vitamin, đơn giản nhất là ăn uống đầy đủ dinh dưỡng.

Cách chăm sóc và bảo vệ thị giác cho trẻ có tật khúc xạ

Việc chăm sóc và bảo vệ thị giác cho trẻ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình, y tế và bản thân học sinh cũng phải có ý thức giữ gìn đôi mắt, trong đó có vấn đề vệ sinh thị giác. Các nhà chuyên môn đã đưa ra nhiều biện pháp vệ sinh thị giác như sau:

Đảm bảo nơi học đủ ánh sáng: Ánh sáng chúng ta dùng làm việc gần phải có cường độ lớn gấp 3 lần cường độ ánh sáng trong phòng. Cường độ ánh sáng tối thiểu để làm việc gần là 200 lux, nhưng tối đa không quá 500 lux. Cần tránh sự phản xạ bề mặt (đó là các phản xạ từ mặt giấy hoặc màn hình máy tính) khi chúng ta làm việc gần. Nên sử dụng kết hợp đèn điện bóng tròn và đèn ống. Việc chiếu sáng tốt nhất cho việc đọc sách là chiếu sáng từ sau và trên xuống. Chúng ta cũng có thể kết hợp ánh sáng nhân tạo và ánh sáng mặt trời. Cả phòng nên được chiếu sáng đầy đủ.

Tại trường học, việc ngăn ngừa học sinh bị cận thị không chỉ yêu cầu về ánh sáng mà còn nhiều yếu tố khác liên quan như màu tường, chiều cao bàn ghế phù hợp với lứa tuổi, màu bảng và tư thế ngồi của học sinh. Các lớp học phải đủ ánh sáng.

Ngoài ra còn dùng màu sắc để tăng cường sự phản chiếu ánh sáng như trần lớp học quét vôi trắng, tường quét vôi màu vàng nhạt. Bảng viết sơn màu đen hoặc xanh thẫm, không bị lóa.

Kích thước và cách sắp xếp của bàn, ghế, bảng viết: Phải phù hợp với học sinh ngồi học để có thể nhìn đúng khoảng cách từ mắt đến tập vở, sách và không phải cúi đầu nhiều.

Học sinh khi ngồi học phải giữ đúng tư thế: Ngồi thẳng lưng, đầu hơi cúi khoảng 10 - 15 độ, không được cúi gằm mặt, nghiêng đầu, áp má lên bàn học, luôn để mắt xa sách, vở một khoảng cách thích hợp. Khoảng cách lý tưởng để đọc sách gần là khoảng cách Harmon (Harmom - Distance) là khoảng cách đo từ chỗ đầu ngón cái hoặc ngón trỏ cong lại đến cùi chỏ. Với HS cấp III khoảng 35cm, cấp II: 30cm, cấp I: 25cm.

Tư thế ngồi học của học sinh cũng có thể làm gia tăng độ cận thị, do vậy hướng dẫn trẻ ngồi đúng và luôn nhắc nhở khi trẻ ngồi vào bàn học để giúp trẻ có thói quen tốt.

Ở nhà: Góc học tập phải đặt ở nơi đủ ánh sáng nhưng cũng không nên để ngoài hiên vào những ngày nắng gắt vì ánh sáng hơn 700 lux cũng gây hại cho mắt. Góc học tập của trẻ nên ở gần cửa sổ và kê bàn học, ghế ngồi của trẻ vừa với kích thước cơ thể của trẻ sao cho trẻ ngồi học được thoải mái, khoảng cách từ mắt đến sách đọc khoảng từ 30 - 40cm, không nên quá gần. Ngoài sự chiếu sáng trong phòng nên có một ngọn đèn bàn đặt phía bên tay trái và không sử dụng giấy quá bóng gây mỏi mắt. Trẻ không được nằm, quì để viết bài.

Giảm mọi căng thẳng của mắt: không thức quá khuya đọc sách, nhất là học sinh cấp 1 và những em thị lực kém. Hạn chế thời gian xem video, tivi, trò chơi điện tử, vi tính... để ngủ đủ thời gian. Không đọc sách, truyện có hình ảnh không rõ, chữ quá nhỏ.

Nghỉ ngơi thị giác từng lúc: Cứ 20 phút làm việc gần, chúng ta nhìn xa 1 khoảng cách là 20 feet tức 6m để làm giảm căng thẳng do nhìn gần quá lâu.

- Nếu nhìn ảnh xung quanh bị mờ, chúng ta cho mắt nghỉ lâu hơn.

- Không làm bất cứ việc gì phải huy động thị giác gần quá 45 phút, việc nghỉ định kỳ giữa mỗi 45 phút giúp đầu óc thư thái hơn, làm giảm sự căng thẳng, sau đó làm việc sẽ hiệu quả hơn.

Khi viết: Khi cầm bút, ta nên cầm cách đầu bút khoảng 2,5cm để tránh phải nghiêng đầu xem những gì ta đang viết. Ta nên tập xoay nghiêng theo một góc đồng phương với góc nghiêng của tay cầm bút.

Độ nghiêng của sách: Khi chúng ta đặt sách lên mặt bàn thì khoảng cách từ mắt đến đầu trang sách sẽ lớn hơn khoảng cách từ mắt đến cuối trang, điều này dẫn tới mắt chúng ta sẽ bị áp lực nhiều hơn khi đọc đến cuối trang. Do đó, chúng ta nên để nghiêng sách 1 góc khoảng 20 độ.

Xem truyền hình: Nên xem tivi ở khoảng cách bằng 7 lần chiều rộng của màn hình TV, khoảng 2,5 - 3,0m. Ngồi thẳng khi xem và nên có chiếu sáng trong phòng nhưng tránh ánh sáng phản xạ trực tiếp màn hình.

Trẻ em nên giới hạn việc xem TV khoảng 1 đến vài giờ/ngày. Nếu trẻ có tật khúc xạ, nên đeo kính khi xem TV nhằm giúp nhìn rõ và thoải mái về thị giác.

Tham gia các hoạt động ngoài trời: Trẻ em nên chơi thể thao và tham gia các hoạt động ngoài trời sau những giờ học căng thẳng để giúp mắt thư giãn và cũng làm giảm các áp lực về tâm lý. Vì các hoạt động thể thao thường đòi hỏi thị giác xa hơn là thị giác gần. Các nghiên cứu khoa học cũng cho thấy trẻ chơi thể thao hoặc tăng cường các hoạt động thể lực ngoài trời ít cận thị hơn.

Khi tham gia các phương tiện giao thông: Khi đi tàu xe, máy bay hay xe lửa không nên đọc sách vì chuyển động lắc lư gập ghềnh làm ta phải thay đổi điều tiết liên tục dẫn đến mệt mỏi về thị giác.

Ăn uống đầy đủ chất: nhất là các thực phẩm có chứa vitamin A như gan động vật, trứng gà, trứng vịt, các lại rau quả có màu đỏ, cam, vàng như cà chua, gấc, cà rốt, bí đỏ... các loại rau có màu xanh lục.

TS.BS. Nguyễn Thanh Vân

 

 


Ý kiến của bạn