Vitamin C: Trong cơ thể, vitamin C tham gia vào các phản ứng ôxy hóa khử. Đó là yếu tố cần thiết cho tổng hợp collagen là chất gian bào ở các thành mạch, mô liên kết, xương, răng. Khi thiếu vitamin C, các vết thương lâu thành sẹo, làm việc và học tập chóng mệt mỏi. Vitamin C có nhiều trong các loại rau xanh, quả chín. Tuổi dậy thì cần ăn 300 - 500g rau quả/ngày vừa đảm bảo cung cấp vitamin C, caroten… mà còn cung cấp chất xơ để kích thích tiêu hóa và đào thải chất độc ra khỏi cơ thể.
Ngoài việc ăn, cũng cần để ý đến uống của lứa tuổi này. Nhiều khi các em mải học hoặc mải chơi nên quên đi việc uống nước. Nước cần thiết cho mọi hoạt động chuyển hóa trong cơ thể. Hằng ngày, các em cần uống từ 1,5 - 2 lít nước, tốt nhất là nước rau quả, nước đun sôi để nguội. Nên uống nước ngọt ở mức vừa phải.
Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm cũng luôn cần được quan tâm và nhắc nhở, tuyên truyền tới các em. Lứa tuổi này thường “háu ăn” và dễ bỏ qua các chi tiết về vệ sinh, đặc biệt là khi ăn quà ngoài hàng quán.
![]() Khám sức khỏe tiền hôn nhân là việc cần thiết trước khi kết hôn. Ảnh: VNN |
Qua giai đoạn tuổi dậy thì các em sẽ trở thành người lớn thực sự, các em sẽ chuẩn bị bước vào giai đoạn tìm hiểu và xây dựng gia đình rồi sinh con cái. Để chuẩn bị cho việc lập gia đình và mang thai, người phụ nữ cần có chế độ ăn đảm bảo đủ cả năng lượng, chất đạm, chất béo, vitamin và muối khoáng, đặc biệt lượng đạm phải được ưu tiên cao hơn so với bình thường khoảng 15%. Không giống năng lượng, lượng đạm dư trong khẩu phần ăn của người phụ nữ không bị tích tụ lại mà là nguồn dự trữ hỗ trợ cho nhu cầu bổ sung của quá trình mang thai. Vì thực tế khi mang thai, thai nhi rất cần đạm và các chất dinh dưỡng để tổng hợp và phát triển các tổ chức. Với những phụ nữ có chế độ dinh dưỡng kém, đặc biệt là thiếu đạm thì việc điều chỉnh chế độ ăn trong quá trình mang thai sẽ khó khăn hơn.
Khi khẩu phần ăn của người mẹ trước khi mang thai bị thiếu hụt hoặc chỉ vừa đủ về lượng vitamin hoặc các khoáng chất thì tình hình này sẽ càng trở nên trầm trọng trong quá trình mang thai. Ví dụ, những người phụ nữ sống trong vùng bị thiếu hụt iốt sẽ phải chịu rất nhiều hậu quả khác nhau khi mang thai (bướu cổ, sinh con nhẹ cân, chức năng tâm thần bị suy giảm).
Mức tăng cân của người mẹ trong quá trình mang thai giúp tạo ra thai nhi khỏe mạnh và tạo điều kiện để người mẹ có đủ sữa sau khi sinh. Nhưng mức tăng cân thay đổi giữa những phụ nữ có cuộc sống đầy đủ với những phụ nữ có đời sống khó khăn. Những phụ nữ có thai trong cộng đồng có đời sống khó khăn thường có mức tăng cân khi mang thai thấp hơn nhiều so với các phụ nữ trong cộng đồng đủ vật chất. Nếu họ không có đủ năng lượng trong chế độ ăn hằng ngày trước khi mang thai thì dễ bị giảm cân và có nguy cơ cao sinh ra những đứa trẻ nhẹ cân.
Khi kết hôn, nếu cả bố và mẹ đều có tình trạng dinh dưỡng và thể lực tốt thì sẽ sinh ra những đứa trẻ khỏe mạnh thông minh. Một người mẹ thiếu dinh dưỡng, một người cha gầy yếu hay nghiện rượu sẽ không thể tạo ra những đứa trẻ khỏe đẹp.
Do vậy để tạo ra thai nhi khỏe mạnh, là cơ sở để đứa trẻ phát triển tốt cả về thể lực và trí lực sau này, cả người bố và người mẹ đều cần có một chế độ dinh dưỡng đầy đủ, cân đối. Việc chăm sóc dinh dưỡng cần được quan tâm sớm từ giai đoạn tiền hôn nhân. Các cặp vợ chồng trẻ chỉ nên sinh con khi cả hai thấy mình có có kiến thức, tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe tốt nhất.
TS.HOÀNG KIM THANH (Viện Dinh dưỡng)