“Cậu nhỏ” cũng bị ung thư

29-12-2020 14:47 | Sức khỏe sinh sản
google news

SKĐS - Khi “cậu nhỏ” của phái mạnh có những dấu hiệu bất thường như những tổn thương sùi hoặc loét, nhất là tại quy đầu hoặc bao quy đầu... là lúc cần nghĩ tới căn bệnh ung thư.

Dương vật là một phần của cơ quan sinh dục nam, có 2 chức năng chính: tiểu tiện và sinh dục. Nó bao gồm 3 phần hình trụ: 2 vật hang giống như nòng súng có vai trò gây cương dương vật và vật xốp nằm chính giữa phía dưới 2 vật hang, bọc quanh niệu đạo đến tận quy đầu. Quy đầu có bao quy đầu bao phủ. Ung thư dương vật thường là những tổn thương sùi hoặc loét tại dương vật, trong đó vị trí hay gặp nhất là tại quy đầu hoặc bao quy đầu.

Ai dễ bị ung thư dương vật?

Theo dịch tễ, bệnh lý này ít gặp ở các nước phương Tây (0,7 - 0,8%) trong khi đó lại hay gặp hay gặp đàn ông châu Á (17%). Ung thư dương vật gặp ở đàn ông 60 tuổi không có cắt bao quy đầu, thường ở dạng ung thư biểu bì trong khi đó dạng u hắc tố thường hiếm gặp.

Nhiều trường hợp ung thư dương vật đến khám chuyên khoa chậm, dẫn tới chẩn đoán muộn thường do bệnh nhân bỏ qua hoặc chủ quan khi xuất hiện những thương tổn đầu tiên mãi đến khi các triệu chứng trở nên rõ ràng hoặc nặng lên mới đi khám. Tiến triển của bệnh thường chậm, khu trú và theo vùng lan tới các hạch bẹn, tiểu khung.

Những yếu tố nguy cơ và dấu hiệu ung thư dương vật

Yếu tố nguy cơ hay gặp nhất, liên quan tới căn nguyên của ung thư dương vật bắt nguồn từ sự mất vệ sinh. Nguy cơ này sẽ sẽ tăng lên nếu có tình trạng hẹp không cho phép lộn bao quy đầu. Như thế, việc lộn bao quy đầu để vệ sinh thường xuyên đóng vai trò vô cùng quan trọng trong dự phòng ung thư dương vật. Ngoài ra còn có những yếu tố khác gây ung thư dương vật như: Bệnh da liễu của quy đầu hoặc bao quy đầu có thể ung thư hoá, đôi khi phối hợp với virus gây u nhú (HPV).

Ảnh minh họa

Chẩn đoán tổn thương tiền ung thư rất khó khăn, luôn phải hội chẩn với chuyên khoa da liễu, và điều quan trọng nhất là phải làm sinh thiết tế bào.

Cần nhớ rằng, một vết màu đỏ xuất hiện tại quy đầu cho dù đã rửa cẩn thận mà không hết thì bắt buộc phải khám chuyên khoa da liễu và tiết niệu để loại trừ ung thư dương vật.

Ở giai đoạn ban đầu, tổn thương này không gây đau. Dấu hiệu lâm sàng xuất hiện trong quá trình phát triển của khối u là: ngứa, chảy máu do tiếp xúc và đặc biệt là thể tích quy đầu to lên, đôi khi triệu chứng này khó phát hiện do hẹp bao quy đầu. Rất hiếm khi có rối loạn tiểu tiện.

Nếu như đột nhiên có biểu hiện không thể lộn được bao quy đầu phải hết sức lưu ý và đi khám ngay chuyên khoa tiết niệu.

Các phương pháp điều trị

Khi có ung thư dương vật, cần nghiên cứu hệ thống bạch mạch bao gồm hạch canh gác vùng bẹn, giống như trong ung thư vú. Việc nghiên cứu này giúp thực hiện việc tiêm dung dịch đánh dấu điện quang cho phép phát hiện đường dẫn bạch huyết nhờ chụp nhấp nháy đồ (Scintigraphie).

Với khối u tại quy đầu, có 2 phương pháp điều trị có thể thực hiện bao gồm: cắt cụt toàn bộ hay một phần dương vật tuỳ theo sự lan toả của khối u vào quy đầu. Hoặc điều trị bảo tồn quy đầu bằng liệu pháp phóng xạ (cấy kim Irridium) nếu thương tổn nhỏ hơn 30mm.

Với khối u của bao quy đầu, có thể chỉ cần cắt bao quy đầu là đủ với điều kiện nếu thương tổn cách xa quy đầu.

Với khối u xâm lấn vào vật hang, phải cắt cụt dương vật phối hợp với nạo vết hạch bẹn.

Trường hợp không sờ thấy hạch, việc xác định hạch canh gác cho phép khẳng định không có di căn vùng bẹn. Nếu có hạch canh gác, cần tiến hành phẫu thuật lấy bỏ toàn bộ các hạch bẹn.

Trường hợp sờ thấy hạch, cần phẫu thuật rộng rãi vùng bẹn.

Biến chứng của ung thư dương vật

Với dương vật, phẫu thuật cắt bỏ gây tổn thương tâm lý trầm trọng. Các biện pháp đầu tư nhằm cải thiện dương vật về sau là cơ sở cho việc cải thiện những tổn thương tâm lý này cho người bệnh.

Các biến chứng tiết niệu có thể gặp là hẹp niệu đạo.

Các biến chứng về sinh dục do dương vật còn lại quá ngắn hoặc mất cảm giác dương vật do liệu pháp phóng xạ.

Tại vùng bẹn cũng hay gặp biến chứng do giải phẫu đặc biệt của vùng này.

Tiên lượng

Nhóm bệnh nhân có tiên lượng tốt là những khối u nhỏ, không có tình trạng xâm lấn vào vật hang, có thể áp dụng phương pháp điều trị bảo tồn. Với những bệnh nhân này, nguy cơ di căn rất thấp.

Nhóm bệnh nhân có tiên lượng xấu là những bệnh nhân có di căn hạch, khối u đã xâm lấn vật hang. Trong những trường hợp này cần kiểm tra kỹ các hạch.


TS. BS. Lê Sĩ Trung
Ý kiến của bạn