Câu hỏi thường gặp liên quan đến bỏng

27-03-2024 10:36 | Tra cứu bệnh

SKĐS - Bỏng là một tổn thương ngoại khoa thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Ngày nay những tiến bộ về chăm sóc bệnh nhân bỏng, đặc biệt là công tác sơ cứu và cấp cứu đã cải thiện chất lượng điều trị bỏng, giảm tỉ lệ tử vong đối với các trường hợp bỏng nặng.

1. Đông y có chữa được bỏng không?

Bỏng là tai nạn tổn thương ngoại khoa nên đông y không thể chữa khỏi.

2. Cách xử trí khi bị bỏng

Tùy từng bệnh nhân, loại bỏng khác nhau mà có cách xử trí khác nhau.

Bước 1: Nhanh chóng loại bỏ tác nhân gây bỏng theo nguyên tắc cách ly nạn nhân với nguồn nhiệt. Loại trừ tiếp xúc với tác nhân gây bỏng càng sớm càng tốt.

- Dập tắt lửa đang cháy trên quần áo bằng cách dùng nước hoặc có thể dùng áo, chăn, vải bọc kín chỗ đang cháy để dập lửa;

- Xé bỏ quần áo đang cháy âm ỉ hoặc bị thấm đẫm nước nóng, dầu hay các dung dịch hóa chất nếu ngay sau đó không có nước lạnh dội vào vùng bỏng;

- Đối với bỏng điện thì phải ngắt ngay nguồn điện hay tách nạn nhân ra khỏi nguồn điện.

- Tháo bỏ những vật cứng trên vùng bỏng như giầy, ủng, vòng, nhẫn, đồng hồ… trước khi vết bỏng sưng nề.

Câu hỏi thường gặp liên quan đến bỏng- Ảnh 1.

Sơ cứu ngay vết bỏng đúng cách.

Bước 2: Nhanh chóng làm mát vùng bị tổn thương, thường dùng nước mát (đây là biện pháp đơn giản, hiệu quả). Thao tác này phải tiến hành ngay sau khi bị bỏng, càng sớm càng tốt, sau 30 phút mới làm thì không hiệu quả.

- Sử dụng nước sạch, nhiệt độ nước tiêu chuẩn là từ 16-20 độ C để ngâm và rửa vùng tổn thương. Tận dụng các nguồn nước sẵn có như nước đun sôi để nguội, nước máy, nước mưa, nước giếng…

- Có thể ngâm, rửa phần bị bỏng dưới vòi nước hay trong chậu nước mát; hoặc dội liên tục nước sạch lên vùng bỏng; hoặc đắp thay đổi bằng khăn ướt. Nếu bỏng hóa chất thì phải phải rửa các hóa chất bằng nước và chất trung hòa.

- Kết hợp vừa ngâm rửa phần bị bỏng, vừa cắt bỏ quần áo bị cháy, rửa sạch dị vật hoặc tác nhân gây bỏng còn bám vào vết bỏng.

- Thời gian ngâm rửa từ 15 - 45 phút (thường cho tới khi hết đau rát), tránh làm vỡ, trượt vòm nốt bỏng.

- Giữ ấm phần cơ thể không bị bỏng, đặc biệt với trẻ em, người già. Khi trời lạnh nên rút ngắn thời gian ngâm đề phòng nhiễm lạnh.

Chú ý:

  • Không dùng đá, nước đá lạnh để làm mát vết bỏng.
  • Không ngâm toàn bộ cơ thể nạn nhân vào trong nước.
  • Không đắp các loại thuốc mỡ, lá cây… vào vùng bị bỏng khi chưa rửa sạch.
  • Rửa nước lạnh cũng làm tăng sự mất nhiệt, thân nhiệt tiếp tục giảm, gây sốc nặng thêm. Do vậy, việc dùng nước để rửa hoặc ngâm vết thương cần được kiểm soát chặt chẽ khi diện tích bỏng lớn hơn 15% diện tích cơ thể, nhất là trẻ em và người già.

Bước 3: Phòng chống sốc cần:

  • Đặt nạn nhân ở tư thế nằm
  • Động viên, an ủi nạn nhân
  • Cho nạn nhân uống nước vì nạn nhân rất khát nhất là khi phải chuyển nạn nhân đi xa.

Chú ý:

- Chỉ cho nạn nhân uống nước khi nạn nhân tỉnh táo, không bị nôn và không có những chấn thương khác.

- Dung dịch cho uống: Nếu có điều kiện nên pha dung dịch sau để cho nạn nhân uống.

Pha 1 lít nước:

  • 1/2 thìa cà phê muối ăn
  • 1/2 thìa cà phê muối Natri Bicarbonat (NaHCO3)
  • 2, 3 thìa cà phê đường hoặc mật ong, nước cam, chanh ép.

Nếu không có điều kiện để pha dung dịch trên thì có thể cho nạn nhân uống nước chè đường, nước trái muối, đường hoặc Oresol.

- Dùng thuốc giảm đau cho nạn nhân. Khi dùng thuốc giảm đau, phải chú ý nếu nghi ngờ nạn nhân có chấn thương bên trong thì không được dùng thuốc giảm đau, an thần mạnh.

Bước 4: Duy trì đường hô hấp co nạn nhân như sau:

Nạn nhân bị bỏng ở vùng mặt, cổ, nhất là khi bị mắc kẹt trong khu vực có đồ đạc, bàn ghế… đang bốc cháy, sẽ nhanh chóng bị phù mặt, cổ và các biến chứng của đường hô hấp do hít phải khói hơi. Những trường hợp này phải được ưu tiên số một và phải được chuyển đến bệnh viện ngay. Nhưng trong khi chờ đợi, phải theo dõi sát nạn nhân và phải đảm bảo sự thông thoát đường hô hấp (giữ tư thế đúng hoặc có thể đặt một canuyn vào mũi hoặc miệng nạn nhân, có trường hợp phải mở khí quản…).

Câu hỏi thường gặp liên quan đến bỏng- Ảnh 2.

Phủ vùng bỏng bằng gạc, vải (loại không có lông tơ) vô khuẩn.

Bước 5: Phòng chống nhiễm khuẩn.

Bản thân vết bỏng là vô khuẩn. Do vậy, khi cấp cứu bỏng phải rất cẩn thận để tránh vết bỏng bị nhiễm bẩn, như:

  • Không dùng nước không sạch để dội hoặc đắp vào vết bỏng.
  • Nếu có điều kiện, người cứu nên rửa tay sạch và tránh động chạm vào vết bỏng.

Bước 6: Băng vết bỏng.

- Không được bôi dầu mỡ, dung dịch cồn, kể cả kem kháng sinh vào vết bỏng.

- Không được chọc phá các túi phỏng nước.

- Không được bóc da hoặc mảnh quần áo dính vào vết bỏng.

- Nếu có điều kiện thì phủ vùng bỏng bằng gạc, vải (loại không có lông tơ) vô khuẩn, nếu không có thì dùng gạc, vải càng sạch càng tốt.

- Vết bỏng sẽ chảy ra nhiều dịch nên trước khi dùng băng co giãn để băng vết bỏng lại thì phải đệm một lớp bông thấm nước lên trên gạc hoặc vải phủ vết bỏng. Nếu không có băng co giãn thì chỉ được băng lỏng vùng bỏng để đề phòng vết bỏng sưng nề gây chèn ép.

- Nếu bỏng bàn tay thì có thể cho bàn tay vào một túi nhựa rồi băng lỏng cổ tay, làm như vậy sẽ cho phép nạn nhân vẫn cử động được các ngón tay một cách dễ dàng và tránh làm bẩn vết bỏng.

- Nếu vết bỏng ở cổ tay hoặc cổ chân thì trước hết phủ vết bỏng bằng gạc vô khuẩn hoặc vải sạch, sau đó cho vào một túi nhựa. Có thể đặt nẹp cố định chi bị bỏng, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nâng cao chi bỏng để chống sưng nề các ngón chân, ngón tay và khuyên nạn nhân vận động sớm các ngón chân, ngón tay nếu có thể.

Bước 7: Chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất. Cần lưu ý và sơ cứu những tổn thương phối hợp (cố định chi gãy; cố định cột sống, cổ nếu nghi ngờ có chấn thương cột sống, cổ…).

3. Cách chăm sóc bệnh nhân bỏng tại nhà

Bệnh nhân bỏng cần được điều trị ở những khu vực sạch, thoáng, chống lây chéo và bội nhiễm thềm vì sức đề kháng miễn dịch đã bị giảm. Đồ vải dùng cho người bệnh phải được hấp vô khuẩn, các dụng cụ hộ lý cần được rửa sạch, luộc hoặc ngâm trong các dung dịch sát trùng.

Cần chống loét ở các vùng tì ép của cơ thể. Nếu bỏng sâu ở chu vi cơ thể cần để bệnh nhân nằm giường xoay, cứ 6 giờ lại thay đổi tư thế một lần. Sau mỗi lần ăn hoặc tiểu tiện, đại tiện, cần làm vệ sinh răng miệng hoặc vệ sinh vùng tầng sinh môn, bộ phận sinh dục. Chú ý việc tắm rửa, lau chùi da, cắt móng tay, móng chân, cắt tóc.

Đối với bệnh nhân bỏng, vật lý trị liệu và phục hồi chức năng có ý nghĩa quan trọng. Ở những trung tâm điều trị bỏng tiên tiến, người huấn luyện viên vật lý trị liệu và phục hồi chức năng có thể đi theo bệnh nhân từ lúc mới nhập viện cho đến khi bệnh nhân ra viện và cả sau khi ra viện nữa. Họ cũng là thành viên của tập thể nhân viên điều trị bỏng (như các bác sĩ, y tá…) và cùng chia sẻ trách nhiệm về kết quả điều trị cho bệnh nhân.

4. Bỏng có chữa khỏi không?

Bỏng có thể chữa khỏi hoàn toàn. Tùy thuộc vào mức độ tổn thương việc điều trị đem lại hiệu quả ra sao. Nếu bỏng do hóa chất nặng hơn bỏng nhiệt…

- Diện tích và độ sâu của bỏng: diện tích bỏng rộng nặng hơn diện tích bỏng hẹp…, bỏng sâu nặng hơn bỏng nông…

- Cơ địa bệnh nhân: bỏng ở trẻ em và người già yếu tiên lượng nặng. Người lớn, bỏng độ 2 quá 30%, độ 3 quá 15% là bỏng nặng. Nhưng trẻ em, bỏng độ 2 quá 12%, độ 3 quá 6% đã là nặng.

- Dựa vào vị trí bỏng: bỏng đường hô hấp hiếm gặp hơn nhưng rất nặng.

Bỏng vùng đầu mặt, tiên lượng nặng có lẽ do rối loạn vận mạch gây thiếu máu não, gây phù não. Bỏng vùng hậu môn sinh dục dễ bị nhiễm khuẩn. Bỏng bàn tay gây sẹo co và dẫn đến mất chức năng của bàn tay…

5. Lưu ý với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ khi bị bỏng

Trẻ em, người già, phụ nữ, là những đối tượng có nguy cơ bị bỏng nhiều nhất. Ngoài ra, một số yếu tố như: giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp,… cũng có khả năng bỏng cao.

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), phụ nữ có tỷ lệ tử vong do bỏng cao hơn nam giới. Điều này trái ngược với các chấn thương thông thường (gãy xương, bong gân,…), trong đó tỷ lệ nam giới gặp thương tật cao hơn so với nữ.

Nguy cơ cao đối với phụ nữ hay nấu ăn hoặc sử dụng bếp không an toàn. Ngoài ra, lửa cũng được sử dụng làm công cụ bạo lực, giải quyết các mâu thuẫn.

Cùng với phụ nữ và người già, trẻ em rất dễ bị bỏng. Bỏng là nguyên nhân phổ biến thứ 5 gây thương tích không tử vong ở trẻ. Điều này đến từ sự thiếu quan tâm, giám sát của người lớn trong việc chăm nom con cái.

Các yếu tố rủi ro khác

  • Một số yếu tố gây bỏng: nghề nghiệp, nghèo đói, thiếu các biện pháp bảo hộ khi lao động.
  • Người khuyết tật về thể chất, nhận thức, hoặc mắc bệnh động kinh,…
  • Người có khuynh hướng bạo lực, sử dụng hóa chất để tấn công người khác.
  • Lưu trữ không an toàn các vật liệu dễ cháy.
  • Tiếp xúc lâu với ánh sáng mặt trời.
  • Sử dụng bếp củi, tiếp xúc với nguồn nhiệt hoặc dây điện.

6. Chi phí khám chữa bệnh

Trước tiên phải khẳng định rằng ở bệnh nhân bị bỏng nặng không thể điều trị nội khoa mà khỏi được. Bệnh nhân nhất thiết phải tiến hành phẫu thuật để loại bỏ mô hoại tử, ghép da khi điều kiện cho phép.

Các trường hợp bỏng sâu đều cần được điều trị ở các cơ sở chuyên khoa. Bỏng với diện tích và độ sâu ở bệnh nhân này có nguy cơ khác như sốc bỏng, mất nước, điện giải, nguy cơ nhiễm khuẩn, suy giảm sức đề kháng… đều có thể dẫn tới biến chứng đe dọa tính mạng.

Bỏng vùng chi thể, vùng khớp, có nguy cơ ảnh hưởng tới chức năng trầm trọng nếu không điều trị đúng cách. Bệnh nhân có thể để lại sẹo biến dạng những vị trí này, co kéo ảnh hưởng tới vận động.

Vì vậy, tùy trường hợp cụ thể bỏng như nào mà có các mức chi phí điều trị cũng khác nhau.

Các nghiên cứu công bố trên thế giới đều cho thấy chi phí điều trị cho bệnh nhân bỏng đều rất cao ở tất cả các nước phát triển và đang phát triển. Một nghiên cứu tại Anh thấy tổng chi phí cho mỗi bệnh nhân bỏng dao động từ 2.527,77 đến 31.870,95 Bảng Anh. Tại Phần Lan, chi phí trung bình cho mỗi lần nhập viện là 24.400 USD/1% diện tích bỏng sâu. Tại Úc, chi phí trung bình mỗi ngày nằm viện là 3.677,35 - 6.263,71 đô la Úc/1% diện tích bỏng sâu.

Ở nước ta, theo nghiên cứu, tổng chi phí điều trị trung bình cho một bệnh nhân là 75,3 triệu đồng. Trong đó, bảo hiểm y tế chi trả chiếm 58,1%. Chi phí điều trị cho 1 ngày nằm viện là 2,6 triệu đồng, cho 1% diện tích bỏng là 2,5 triệu đồng.

Về cơ cấu, tỷ lệ chi phí cho thuốc, vật tư chiếm cao nhất (43,2%), sau đó là phẫu thuật và thủ thuật (30,2%). Chi phí điều trị gia tăng theo tuổi, diện tích bỏng và diện tích bỏng sâu (p < 0,05) và cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh nhân bỏng hô hấp, bỏng điện và tử vong (p < 0,01).

Ngoài ra, các chi phí phục hồi chức năng và chưa kể khi bị bỏng phải nằm viện dài ngày, luôn có người lớn đi theo để chăm sóc sẽ tốn kém hơn.


BS. Nguyễn Văn Sơn
Ý kiến của bạn