Cảo thơm lần giở: Thích Ca nghĩ gì?

05-05-2018 18:55 | Văn hóa – Giải trí

SKĐS - Có thể có đến 5 triệu người Pháp có cảm tình với đạo Phật. Phật giáo ở Pháp có hai khuynh hướng lớn: Đại thừa, đặc chịu ảnh hưởng Zen (Thiền) Nhật, hai là Phật giáo Tây Tạng.

Phụ lục 3: Chuyện trò với một bác sĩ Pháp theo đạo Phật

Tôi quen bác sĩ Sylvestre X. do con dâu tôi cùng làm với ông ở Bệnh viện Quốc tế Hà Nội. Ông chuyên về khoa tia X. Dáng người cao, tóc rủ xuống vai, mắt đăm chiêu, da trắng xanh hơi tái, nói năng nhỏ nhẹ, ông có vẻ một thầy dòng hơn là một bác sĩ. Ông thích nói về triết học.

Một hôm, câu chuyện chúng tôi ngưng đọng ở đạo Phật, vì qua trao đổi ý kiến, tôi biết ông là một Phật tử.

Hữu Ngọc (HN): Tôi nghe nói đạo Phật đang có đà phát triển ở phương Tây?

Sylvestre (S): Đúng vậy. Trước kia đạo Phật chỉ là đề tài nghiên cứu. Từ mấy chục năm nay, đã thực sự có nhiều tín đồ Phật giáo. Ở Pháp, có thể có đến 60 vạn Phật tử, trong đó có đến ba phần tư là người di cư từ Đông Nam Á đến: Việt Nam, Lào, Campuchia, không kể Tây Tạng, Trung Quốc. Theo tôi nghĩ, có thể có đến 5 triệu người Pháp có cảm tình với đạo Phật. Phật giáo ở Pháp có hai khuynh hướng lớn: một là Đại thừa, đặc biệt chịu ảnh hưởng Zen (Thiền) Nhật, thoải mái hơn, có Trung tâm tập hợp tu luyện lớn ở Melun, ngoại ô Paris, một số nhỏ hơn ở tỉnh lẻ, hai là Phật giáo Tây Tạng, Mật Tông, nghi lễ chặt chẽ hơn, thần bí hơn, có cả ma thuật cũng ảnh hưởng lớn. “Phật sống” Dalai Lama viết một sách loại sách bán chạy (best-seller) tên là Nghệ thuật sung sướng.

Đạo Phật không đưa ra những nguyên tắc và lời dạy cứng nhắc, mà chỉ là những gợi ý, lẳng lặng áp dụng đạo Phật vào cuộc sống hàng ngày và tâm hồn cảm thấy thoải mái.

Đạo Phật không đưa ra những nguyên tắc và lời dạy cứng nhắc, mà chỉ là những gợi ý, lẳng lặng áp dụng đạo Phật vào cuộc sống hàng ngày và tâm hồn cảm thấy thoải mái.

HN: Tôi nghe nói trong mấy thập niên vừa qua, triết học đã trở thành “mốt” ở Pháp, sách triết học cao thấp đủ loại bán rất chạy. Cả các ki-ốt sách báo tại sân ga hay trong phố bán “truyện tình ba xu” lẫn sách phổ biến triết học và sách vở triết lý sống. Sách về tôn giáo có nằm trong trào lưu ấy không?

S: Có. Sách tôn giáo cũng nằm trong trào lưu ấy. Kể cả Phật giáo. Thí dụ, cuốn Tu sĩ và triết gia kể lại cuộc trao đổi giữa triết gia Pháp nổi tiếng G.F.Revel và con trai là Mathieu Ricard đi tu đạo Phật Tây Tạng ở Nepan.

HN: Ông đã tiếp cận đạo Phật lần đầu tiên từ bao giờ?

S: Đã lâu lắm rồi. Năm tôi còn nhỏ, khoảng 12 tuổi. Một hôm tôi vào một hiệu sách, bị hấp dẫn bởi một cuốn sách “loại bỏ túi”, một cuốn tiểu thuyết kể chuyện về cuộc đời một chú tiểu bỏ trốn khỏi Tây Tạng, đi lang thang sang châu Âu. Tôi rất thích đọc mà không đủ tiền mua. Ông chủ hàng sách thương hại cho tôi cuốn sách. Tôi đọc nghiến ngấu và mê đạo Phật từ đó, nhưng chỉ hiểu lơ mơ. Tôi vốn thích thiên nhiên, cây cối, trong sách lại tả nhiều về thiên nhiên.

Đến năm 23 tuổi, khi tôi là sinh viên y học, tôi được phái sang thực tập ở đất Phật Nepan. Trong cảnh núi non hùng vĩ, đi thăm nhiều chùa, đàm đạo về Phật học với nhiều người, sau đọc rộng ra, tôi mới thật giác ngộ về đạo Phật. Và tôi đã trở thành Phật tử có ý thức, Phật tử trong tâm trí và hành động, chứ không tụng kinh, đi lễ chùa. Trong số người quen cũng có người không biết tôi là Phật tử, bởi tôi chẳng giấu, nhưng cũng không nói ra làm gì, vì tôi làm cho tôi cơ mà. Từ hai năm nay, tôi chỉ ăn rau, không ăn thịt, thấy người thoải mái lắm.

HN: Ông tìm thấy gì ở đạo Phật?

S: Cũng như không ít người ở phương Tây, tôi cảm thấy chạy theo cái vật chất, nhà lầu, các tiện nghi điện tử... cuối cùng chán ngấy, thế nào cũng chưa đủ...

HN: Lòng dục vô biên. Ở Mỹ, tôi thấy nhiều người mải mê chạy theo tiền đến nỗi quên cả tiêu tiền, không hưởng được gì cả.

S: Đâu phải chỉ ở Mỹ. Theo đạo Phật, tôi không phải bận tâm nhiều đến danh lợi, đỡ bị giày vò bởi cái “tôi”, tôi cảm thấy yên vui.

HN: Thế ông cho đạo Phật là lạc quan ư? Thường người ta cho là bi quan cơ mà? Triết gia Đức thế kỷ XIX Schopenhauer, chịu ảnh hưởng Phật, cho là do lòng dục, sống và khổ gắn với nhau, thế giới chịu sự thống trị của một ý chí mù quáng, phi lý tính.

S: Tôi nghĩ ngược lại. Theo tôi, đạo Ki-tô bi quan hơn nhiều; con người sinh ra đã mang tội của tổ tông, làm điều thiện chưa chắc đã được lên thiên đường vì làm sao chắc mình sẽ được hưởng ân Chúa, con người phụ thuộc vào cái siêu nhiên... Còn theo đạo Phật, ai cũng có Phật tính, cũng có thể thành Phật, nắm được chân lý “sắc không” tự mình có thể giải thoát, có vượt qua cái Nghiệp và tự làm cho bớt khổ, do đó sống ung dung tự tại. Đạo Phật rất mở, vào bất cứ nền văn hóa nào cũng dễ hòa nhập, nền văn hóa nào cũng giải thích theo màu sắc của mình được. Tôi học trung học ở một trường Dòng Tên (Jesuite) khắt khe, nên khi gặp đạo Phật khoan dung, thương cảm, tôi rất hợp. Đạo Phật không đưa ra những nguyên tắc và lời dạy cứng nhắc, mà chỉ là những gợi ý. Tôi không phải là một tín đồ cuồng tin, chỉ lẳng lặng áp dụng đạo Phật vào cuộc sống hàng ngày và thấy thoải mái.

Phụ lục 4: Chủ nghĩa tiêu thụ và Phật học

Mùa thu năm 2002, tại Yên Tử tổ chức lễ khánh thành chùa Lân, Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử. Hàng nghìn phật tử từ Bắc chí Nam đến dự lễ, mọi người được phát lộc Phật, một suất ăn trưa. Suất ăn là một hộp giấy đựng ít cơm, ít thức ăn chay, một chiếc thìa nhựa con. Giá trị vật chất tuy không lớn, nhưng ý nghĩa tinh thần lớn, đó là một nét sinh hoạt cộng đồng rất đẹp, gợi lại truyền thống dân tộc, sống hòa hợp với những lễ hội dân gian như kiểu lễ hội xưa của chùa Quỳnh Lâm xứ Đông.

Tinh thần sống cởi mở “Tam giáo đồng nguyên”, gắn bó với nhau, đã tạo nên trong mấy trăm năm một nền thịnh trị đánh bại ngoại xâm. Đặng Thai Mai đã nhận định vào thời kháng chiến: “Bảo là đời sống hồi ấy là một đời sống tự do, hoàn toàn bình đẳng thì e quá, nhưng thiết tưởng nói rằng đời sống xã hội phong kiến thời ấy còn có những ngày dễ chịu, vui vẻ, gần gũi với nhau hơn các đời vua sau, thì cũng không phải là nói ngoa. Hồi ấy, người ta biết sống vui trong tinh thần, trong tin tưởng”.

Ngày nay, tinh thần hồ hởi ấy đang bị xói mòn bởi tác động của “chủ nghĩa tiêu thụ”, ảnh hưởng của “xã hội tiêu thụ”. Thực ra thì ta chưa phải là một “xã hội tiêu thụ”, vì trong hoàn cảnh kinh tế hiện nay, ta vẫn thuộc loại quốc gia nghèo. Chỉ một bộ phận của xã hội, nhất là ở thành thị ăn tiêu thừa thãi mới có phương tiện sống theo kiểu “xã hội tiêu thụ”. Nhưng “chủ nghĩa tiêu thụ” (với đặc điểm lấy tiêu thụ vật chất làm mục đích cuộc đời) - gây lãng phí và ô nhiễm, ảnh hưởng đến cả các tầng lớp khác.

Trong một bài viết cho Inter Press Service, nhà hoạt động Phật học Thái Sulak Sivaraksa khẳng định là “chủ nghĩa tiêu thụ” phương Tây ngược lại với tư tưởng Phật học và phương Đông nói chung, với khái niệm Phật học về “phát triển”. Ông cho là nước Thái Lan của ông không còn là xã hội Phật giáo nữa, vì những người quyền thế ứng xử như ở phương Tây, mắc vào “tham, sân, si”, bị chi phối bởi oán thù.

Ông phân tách mối liên hệ Đông - Tây như sau: thế kỷ trước, phương Đông bị chủ nghĩa thực dân phương Tây (kỹ thuật và tư bản) đánh bại, nên đã đấu tranh để chấm dứt nó. Đến nay, phương Tây lại dùng chủ nghĩa thực dân tinh thần Phương Đông, để cạnh tranh, lại đi bắt chước phương Tây. Có điều mỉa mai là, trong khi đó, phương Tây có khá nhiều người hướng về Phật học phương Đông. Họ cảm thấy chỉ tăng trưởng kinh tế, phát triển kỹ thuật và tăng cường tri thức thôi không khiến cho con người hạnh phúc hơn.

Thế giới đang tìm một “con đường phát triển” toàn diện hơn, gồm cả tấm lòng và trí tuệ. Tư duy thiền định khiến ta có đầu óc phê phán bất công và tham lam, nhận định đúng đắn nền văn hóa quốc gia của mình và trật tự kinh tế thế giới. Phật học khiến ta từ vị kỷ chuyển sang vị tha, giác ngộ thế nào là Pháp giới mà khoa học phương Tây không hiểu được vì cách đề cập các vấn đề của họ đều mang tính duy vật và theo đường thẳng, chủ biệt chứ không có chủ toàn. “Hình thức cao nhất của Phật giáo có thể là “chủ nghĩa cộng sản”, mọi Phật tử đều tham gia tăng lữ”. Những cộng đồng như vậy đã có từ hơn hai nghìn năm nay, chỉ cần thỏa mãn tối thiểu bốn nhu cầu: ăn, mặc, ở, thuốc men.

Phương Tây đi ngược lại quan niệm này với khái niệm “tiêu thụ lãng phí”, vậy mà được phương Đông đang hâm mộ. Như Singapore chẳng hạn, đã trở thành rồng kinh tế Đông Nam Á lại từ chối bài học phương Tây về dân chủ. Ông Lý Quang Diệu đề cao Khổng học, cho là Khổng học có thể là cơ sở đấu với phương Tây.

Ông Sivaraksa không đồng ý, nghiêng về Phật học cho là chỉ Phật học mới chuyển được từ vị kỷ sang vị tha, chấm dứt được lòng dục gây khổ não. Con người chú tâm đến xã hội, thiên nhiên - môi trường và vũ trụ. Con đường phát triển của phương Tây cần xem lại, vì những người rất giàu vẫn không có hạnh phúc, còn người nghèo thì thiếu đủ thứ, có sự bất công trên toàn trái đất.

Trên đây là một số ý kiến của một học giả Phật tử Thái Lan để chúng ta tham khảo.


Nhà văn hóa Hữu Ngọc
Ý kiến của bạn