Có những tác phẩm văn nghệ tác động mạnh hơn thuốc nổ. Thời kỳ Cách mạng Pháp 1789, nghĩa quân hát bài Marseillaise - sau thành quốc ca Pháp - đã thắng quân xâm lược. Có vị tướng viết thư cho cấp trên: “Gửi cho tôi một nghìn quân hay một loạt bản in Marseillaise”. Nhà chỉ huy tài ba Carnot (Cac-nô) đánh giá: “Bản Marseillaise đã hiến cho Tổ quốc mười vạn tinh binh”.
Trong lịch sử văn học thế giới, cuốn tiểu thuyết Túp lều của Bác Tôm cũng là một thí dụ điển hình về sức mạnh huy động lương tâm và quần chúng của văn chương. Tổng thống Mỹ đương thời A. Lincon nhận xét về tác giả nữ sĩ H.E. Beecher - Stowe là “người phụ nữ trẻ đã mang lại chiến thắng cho chiến tranh” chống chế độ nô lệ.
Bà H.E. Beecher - Stowe (Stâu, 1811-1896) là con một mục sư Tin lành thuộc trường phái Trưởng lão. Bà được giáo dục theo quan điểm đạo đức Thanh giáo rất khắt khe. Năm 25 tuổi, bà kết hôn với một nhà truyền giáo kiêm giáo sư thần học. Qua 18 năm ở miền Nam nước Mỹ, bà biết nhiều về đời sống cơ cực của người nô lệ da đen. Là mẹ của 7 đứa con, bà có ít thời giờ để viết. Cuối cùng bà cũng soạn xong được Túp lều của Bác Tôm hay Đời sống trong đám người hạ đẳng (Uncle Tom’s Cabin or Life among the Lowly), đăng tải nhiều kỳ từ tháng 6/1851 đến tháng 4/1852 trên tờ báo chống chế độ nô lệ National Era (Kỷ nguyên quốc gia). Năm 1852, một nhà xuất bản ở Boston cho in tiểu thuyết thành 2 tập, bán được 300.000 bản trong năm đầu. Truyện cũng được chuyển thể thành kịch, đưa lên sân khấu, trở thành vũ khí lợi hại cho phái chống chế độ nô lệ. Tác phẩm được dịch sang 32 thứ tiếng.
Harriet Beecher Stowe (1811-1896).
Truyện kể về cuộc đời buồn tủi của Bác Tôm, người nô lệ da đen ngay thẳng, biết tự trọng. Một người chủ da trắng tốt bụng bị thua lỗ phải bán bác đi cùng cháu bé là Henry. Mẹ Henry là Eliza, một phụ nữ da đen; chị mang con đi trốn; làm được điều kỳ lạ là vượt sông Ohio phủ băng. Chị được một tập thể da trắng theo giáo phái Quaker (Quâycơ) cưu mang. Chồng chị là George (Giogiơ) cũng trốn thoát nanh vuốt một tên chủ độc ác và đoàn tụ được với vợ con. Họ di cư sang Canada là đất không còn chế độ nô lệ.
Số phận của Bác Tôm buồn thảm hơn. Đành bỏ lại vợ con, bác ngậm đắng nuốt cay theo chủ mới. May bác gặp cô gái không chồng O.St.Claire, một người mộ đạo dịu hiền. Nhưng cô chết và cha cô bị tử thương trong một cuộc ẩu đả. Bác Tôm rơi vào tay một tên chủ mới tàn ác, người miền Bắc, có đồn điền bông ở miền Nam, tên là Legree. Bác được giao nhiệm vụ trông coi nô lệ da đen; bác không chịu đánh đồng đội nên bản thân bị đánh chết. Khi con của chủ cũ tìm được ra bác thì bác đang hấp hối; những lời cuối cùng của bác là những lời tha thứ và thương yêu.
Tác giả Beecher - Stowe cho xuất bản tác phẩm vào những năm 50 của thế kỷ XIX, vào đúng thập kỷ mà văn học Mỹ khẳng định tính độc đáo của mình với hàng loạt tác giả như Hawthorne, Melvile, Whitman, Longfellow. Beecher - Stowe đã sử dụng quan điểm nhân đạo Thiên Chúa giáo để chống lại chế độ nô lệ (tác giả cho là chính bàn tay Thượng đế viết ra); tác phẩm cũng tôn trọng những người quý phái tốt bụng ở miền Nam. Nhưng về sau, những người da trắng thống trị đã xuyên tạc nhân vật Bác Tôm, đưa ra một điển hình “người da đen tốt”, biết chịu đựng, phục vụ chủ; do đó có thành ngữ xấu “Uncle Tomism” có nghĩa là sự phục tùng vô điều kiện của người da đen đối với người da trắng. Về sau, những người da đen đấu tranh chống phân biệt chủng tộc hay dùng hai chữ Bác Tôm để làm tiếng chửi những tên da đen liếm gót người da trắng.
Đứng về mặt giá trị văn chương, Túp lều của Bác Tôm chưa hẳn đã là một kiệt tác, vì nhiều khi, nó bồng bềnh giữa tiểu thuyết tư liệu và lời kêu gọi anh hùng chủ nghĩa. Nhưng nó có sức hấp dẫn do thời điểm của vấn đề đưa ra và lý tưởng cao cả của tác giả.
Sau đây là một số suy nghĩ của Stowe:
Chớ có lặp lại những sự điên rồ của tuổi trẻ; hãy nghe lời mẹ; đừng nghĩ là mình lớn rồi không cần nghe mẹ. Hãy nhớ là có rất nhiều điều vui mà Thượng đế có thể ban cho mình hai lần, nhưng Thượng đế chỉ cho mình có một người mẹ.
Giáo dục trẻ em là sự việc quan trọng nhất của nhân loại.
Ngay trong cuộc sống, chúng ta đã ở trong cái chết.
Kẻ nô lệ có thể trở thành một bạo chúa, khi có thời cơ.
Một công việc bản thân nó cũng khá dễ chịu trở nên khó kham được do làm liên tiếp nhiều giờ, do sự lắp đi lắp lại đều đều của sự việc... và bởi ý nghĩ khó chịu là mình bắt buộc phải làm công việc ấy.
Linh hồn tôi không thuộc về ông. Không thể mua được đâu.
Tôi có gan hơn trước kia vì tôi đã mất hết, và kẻ không còn gì để mất sẵn sàng đối phó với tất cả những nguy cơ.
Ai không tự làm chủ được mình thì không thể làm chủ người khác được.
Đối xử với con người như đối với những con lợn thì họ sẽ lao động như những con lợn. Đối xử với con người như những con người thì họ sẽ làm việc như những con người.
Ở đời có những tâm hồn đặc biệt, mà những nỗi buồn riêng lại tạo ra những nguồn vui cho người khác, mà những niềm kỳ vọng ở trần gian khi vùi xuống mộ với những giọt lệ đau thương, là những hạt giống nở ra những bông hoa, hương thơm làm dịu sự bất hạnh và đau thương.