Nói cho đúng, tôi thật phụ lòng ông Giám đốc Thư viện mang tên cụ, Thư viện Nobel.
Câu chuyện như thế này:
Mùa thu năm 1991, tôi vừa từ chuyến xe lửa Goteborg đặt chân xuống Thủ đô Stockholm thì hai chị Gunilla (Gu-ni-la) và Lena (Lê-na) thuộc Viện Thụy Điển, chiêu đãi tôi ở một tiệm ăn Ý, rồi kéo tôi đi bộ một quãng vào khu phố cổ, đến Thư viện Nobel. Thư viện này là một bộ phận của Viện Hàn lâm Thụy Điển đặt trụ sở ngay trong tòa lâu đài giao dịch chứng khoán - hiện giao dịch chứng khoán vẫn tiếp tục hoạt động ở tầng dưới (kể ra thì tài chính chung sống với văn hóa cũng hơi ngộ!).
Alfred Bernhard Nobel (1833-1896).
Ông Giám đốc Thư viện là Anders Rydberg (An-đơx Rít-bec) tiếp tôi một cách niềm nở; người cao xương xương, trạc ngoài ngũ tuần, ông có lối nói sôi nổi, dứt khoát, hấp tấp, khác hẳn sự trầm tĩnh của đa số người Thụy Điển. Ông tỏ ra rất lịch duyệt, và dĩ nhiên việc đầu tiên là ông đưa tôi đi xem Viện Hàn lâm Thụy Điển, phòng họp cổ kính lộng lẫy pha lê và vàng kim nhũ, là nơi vua Thụy Điển trao Giải thưởng Nobel hàng năm.
Viện Hàn lâm Thụy Điển do vua Gustave III (Gut-xta-vơ III) thành lập cách đây hơn 200 năm (1786) theo mẫu Hàn lâm Viện Pháp. Nhiệm vụ chính của nó là bảo vệ và phát triển ngôn ngữ Thụy Điển, đưa văn học dân tộc lên ngang tầm với văn học châu Âu. Viện Hàn lâm có 18 vị viện sĩ, chịu trách nhiệm soạn một Bộ Từ điển, một Bộ Ngữ pháp, mở những kỳ thi văn hóa. Cho đến năm 1989, Viện đã soạn xong 30 cuốn trong Bộ Từ điển, mới đến chữ S. Từ sau khi ông Nobel để lại chúc thư, Viện Hàn lâm có thêm nhiệm vụ lập ra Ủy ban Nobel. Hàng năm, chuẩn bị ra danh sách các nhà văn xứng đáng được giải Nobel văn học để giúp Tổ chức Nobel (Fondation Nobel) quyết định giải, trao vào ngày 10 tháng chạp, ngày mất của Nobel. Dĩ nhiên Viện Hàn lâm còn trao hàng loạt giải thưởng riêng của mình. Hàng năm, Viện Hàn lâm họp một buổi công khai có tính chất nghi lễ; sau khi Hoàng gia và 500 khách đã yên vị, các vị viện sĩ ngồi vào những chiếc ghế bành có đánh số; người ta đọc những bài diễn văn chính thức, giới thiệu viện sĩ mới, rồi đọc tên những người được các giải thưởng trong năm.
Ông Rydberg dẫn tôi đi xem Thư viện Nobel, thư viện lớn nhất Bắc Âu về văn học hiện đại, có chừng 20 vạn cuốn sách. Ông dành cho tôi một ân huệ lớn: ông cho tôi sử dụng một trong năm, sáu chỗ làm việc quanh một chiếc bàn ở dưới hầm lớn của thư viện; dưới những vòm và tường cổ kiên cố, hoàn toàn tĩnh mịch; ở đây tha hồ mà tập trung tư tưởng đọc sách, và nếu say mê, có thể ở lại tự pha cà phê và làm thức ăn ở một góc hầm. Ông bảo tôi cách mở và đóng mấy lần cửa sắt, lên xuống thang máy riêng, rồi đưa cho tôi mấy chiếc chìa khóa và dặn: “Ông đến và đi vào giờ nào cũng được. Sau khi mượn sách ở tầng trên, ông cứ việc ở lại làm việc. Chỉ yêu cầu khi ông ra về, ông nhớ đóng kỹ các cửa. Nếu đóng không đúng kiểu, hệ thống báo động tối tân sẽ báo cảnh sát ngay; cảnh sát sợ là kẻ gian thâm nhập sẽ đến. Mà ông chớ đánh mất chìa khóa; nhỡ đánh mất xin báo ngay để chúng tôi thay khóa loại khác!”.
Tôi cảm ơn ông Rydberg ra về, vừa cảm kích vừa áy náy. Với tính cẩu thả cố hữu và tính “dị ứng với máy móc” của tôi, tôi rất có thể gây ra tai vạ. Tôi không dám trở lại và trước khi về Việt Nam, viết thư xin lỗi và hoàn lại chìa khóa. Chắc cụ Nobel dưới suối vàng cũng thông cảm.
Mặc dù khi sinh thời, Nobel không cho chết là hết, chỉ quan tâm đến hạnh phúc của người sống. Nobel đã từng nói: “Tôi thích để ý đến dạ dày của người sống hơn là sự sùng bái những người chết dưới hình thức tượng đài”.
Alfred Nobel sinh ở Stockholm. Tuy là người Thụy Điển, ông đã sống và đi rất nhiều nước và hoạt động công nghiệp trên phạm vi quốc tế.
Gia đình vốn gốc ở làng Nobbelov tại miền Nam Thụy Điển, do đó mới có tên họ Nobel. Người ông của ông là một học giả uyên bác cỡ quốc tế. Bố là một nhà sáng chế và nhà công nghiệp, bị phá sản phải chạy sang Nga. Sau một thời thơ ấu nghèo khổ sống với mẹ ở Thụy Điển, ông cùng cả nhà đoàn tụ với bố tại Nga. Bố ông đã trở thành một nhà công nghiệp có uy tín làm việc cho Nga hoàng trong ngành chế tạo mìn. Ông được đào tạo rất kỹ về hóa, nói thông thạo bốn ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức, Nga. Trong hai năm, ông được đi tham quan nghiên cứu ở châu Âu và ở Mỹ rồi về làm việc ở phòng nghiên cứu các chất nổ của bố ở gần Stockholm. Ông làm việc không mệt mỏi và xây dựng rất nhiều viện nghiên cứu chất nổ đặt ở Anh, Đức, Pháp, Ý, Thụy Điển. Phát minh lớn nhất của ông là thuốc nổ dy-na-mit (1866), là hợp chất nitroglyxerin trộn với một chất xốp khiến cho việc sử dụng đỡ nguy hiểm; sáng chế này đã mang lại một cuộc cách mạng kỹ thuật trong việc khai thác mỏ, làm đường xá và đào hầm giao thông. Ông còn có nhiều sáng chế trong nhiều lĩnh vực của hóa học (các chất tổng hợp, cao su và da nhân tạo, viễn thông, hệ thống báo động...). Ông đã đăng ký 355 bằng sáng chế; ông khai thác một phần những sáng chế ấy trong 90 xí nghiệp của ông đặt ở khoảng hai chục nước. Ông đi tiên phong trong việc thành lập những công ty đa quốc gia; chính tiền lời của những xí nghiệp này đã khiến cho ông có tiền để mà treo những giải thưởng mang tên ông. Hai người anh của ông, ở lại Nga để quản lý xí nghiệp của bố, cũng là những nhà sáng chế, cộng tác đắc lực với ông.
Cái vĩ đại của Nobel xuất phát từ tính đa dạng của tính cách con người: ông là một nhà khoa học và một nhà sáng chế có biệt tài, một nhà kinh doanh quốc tế có đầu óc tiến bộ, đồng thời lại là một nhà văn hóa có lý tưởng nhân đạo. Theo ý kiến một nhà viết tiểu sử của ông, ngay từ thời niên thiếu, ông đã là “một chàng trai sớm phát triển, đặc biệt thông minh nhưng rất nhạy cảm, mơ mộng và thích nội quan”. Thời thơ ấu sức yếu, hình như suốt đời ông không tìm thấy hạnh phúc. Ông tự coi mình là “một đứa trẻ đẻ non khốn khổ, đáng nhẽ phải được một người thầy thuốc từ thiện bóp chết ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời”. Mọi người đều công nhận ông là người dí dỏm, thông minh, lịch duyệt, vậy mà ông luôn luôn u buồn, tuy thường ưa giễu cợt bản thân. Sự giao thiệp với đủ các hạng người đã để lại trong ông một nỗi yếm thế thể hiện trong những sáng tác của ông.
Nobel là một người cô đơn, chưa từng có gia đình, nhà riêng thật sự; ông là “kẻ lang thang giàu nhất châu Âu”. Ông nói: “Nhà tôi là nơi tôi làm việc và tôi làm việc ở khắp mọi nơi”. Có lúc ông có nhà ở tại sáu nước. Có lẽ Paris, nơi ông làm việc và ở trong gần hai chục năm, là thành phố gần gũi với ông nhất, trừ ngôi nhà ở Thụy Điển vào những năm cuối cuộc đời.
Nobel chưa bao giờ lấy vợ. Ông rất yêu mẹ, luôn luôn quan tâm chăm sóc mẹ. Khi đứng tuổi, hình như ông cũng kết giao rất thân với nữ nam tước người Áo Bertha von Suttner (Béc-ta-phôn Dút-nơ), một người đi tiên phong trong phong trào đấu tranh cho hòa bình. Trong một thời gian, bà là thư ký riêng của Nobel, bà rất có cảm tình với ông và có thể lấy ông nếu bà chưa yêu người khác. Thất vọng, ông lao vào một cuộc tình duyên với Sophie Hess (Xô-phi Hetx), một thiếu nữ Áo trẻ hơn ông 23 tuổi. Cuộc tình duyên kéo dài 18 năm chỉ mang lại cho ông nỗi thất vọng vì ông không nâng nổi người bạn tình lên ngang tầm trí thức và xã hội của ông. Đoạn tuyệt càng làm tăng thêm nỗi u buồn bẩm sinh của ông nhưng đồng thời cũng giúp ông trở lại với sự bình tĩnh tâm hồn.
Ông chết trong cô đơn tại Sanremo ở Ý.
(Mời xem tiếp kỳ II trên SK&ĐS Chủ nhật số 12)