Đã có một thời, những tiểu thuyết và truyện ngắn của J. London có ảnh hưởng lớn đến văn học vô sản quốc tế, do tài kể chuyện và tư tưởng của tác giả. Cuộc đời sôi nổi của ông - kết thúc bằng tự sát, năm 40 tuổi, cũng khiến độc giả chú ý đến con người qua tác phẩm.
Jack London ( 1876-1916).
Là một nhà văn tự học là chính - thời thanh niên có lúc đọc và viết 20 tiếng một ngày, ông chịu ảnh hưởng trái ngược của Herbert Spencer (Hơbơt Xpenxơ), Darwin (Đac-uyn), Marx (Mac) và Nietzsche (Nitsơ).
Jack London là một đứa con hoang. Thuở nhỏ, ông sống trong nghèo khổ với mẹ là một người có vẻ như có quan hệ với cõi âm và chồng bà, một nông dân tên là John London (Gion Lănđơn). Năm 10 tuổi, ông đã đi bán báo; năm 14 tuổi đã làm việc ở nhà máy đồ hộp; năm 16, ông làm cảnh sát đánh cá; năm 17 tuổi, ông làm việc một năm ở tàu bể; năm 18 tuổi, ông đi lang thang khắp nước Mỹ. Người ta kể lại là có lần làm việc quá vất vả ở một xưởng giặt, ông quyết tâm học tập để sống bằng lao động trí óc. Năm 21 tuổi, ông theo làn sóng người ồ ạt đi tìm vàng ở miền Klondike (Klon-đai-kơ). Hai năm sau, ông đăng được trên một tạp chí truyện ngắn đầu tiên và được trả 5 đô-la. Ông đi vào nghề viết văn. Mãi năm 27 tuổi, ông mới nổi tiếng với Tiếng gọi nơi hoang dã (The call of the Wild, 1903), rồi Sói biển (The Sea Wolf, 1904), Nanh trắng (White Fang, 1907), Gót sắt (The Iron Heel, 1907). Nhiều tác phẩm của ông biểu tượng “luật chó sói” của trật tự xã hội tư bản. London cùng S.Crane, Frank Norris và Upton Sinclair bị Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt liệt vào loại nhà văn “khuấy bùn” vì nó phơi bày những thối nát của giới chính trị và kinh doanh Mỹ. London đã từng sống trong những nhà tồi tàn ở Thủ đô để có thể viết được Những người ở vực thẳm (The People of the Abyss, 1903), một cuốn tiểu thuyết tự nhiên chủ nghĩa. Chiến tranh giai cấp (The War of the Classes, 1905) là một tập bài báo có tính chất xã hội chủ nghĩa. London bênh vực chủ nghĩa xã hội, cách mạng vô sản, đồng thời đề cao người hùng. Ông đứng về phía những người cơ cực.
Từ 1913, khi ông 37 tuổi, ông trở thành nhà văn giàu có, sách của ông đã được dịch hơn mười thứ tiếng trên thế giới. Ông tự tử trong trang trại sang trọng ở California. Cử chỉ đó biểu hiện sự thoát ly của một nhà văn cơ bản lãng mạn, cảm thấy mình lạc lõng trong một thế giới thù nghịch.
*
* *
Tiếng gọi nơi hoang dã đã khiến cho London thình lình nổi tiếng. Sau đó, hàng loạt thế hệ độc giả đọc bản dịch các tác phẩm của ông qua bảy chục ngữ; nhờ đó mà ông trở nên giàu có.
Truyện kể về con chó Buck (Băck), sinh sống trong trang trại của một ông thẩm phán ở miền Nam ôn đới nước Mỹ. Đến mùa thu năm 1894, người ta tìm thấy vàng ở vùng Klondike. Thế là dân tứ chiếng đổ xô lên Alaska ở miền Bắc xa xôi giá lạnh. Buck bị bán và đưa lên đó.
Buck phải thay đổi lối sống. Không còn được ai vuốt ve kính nể, phải tìm cách thích nghi với môi trường thiên nhiên ác nghiệt, con người và những chó dữ. Buck nếm mùi đòn vọt, phải nai lưng vươn cổ kéo xe trượt tuyết; các thớ thịt của nó gân lên như thép, bản năng đấu tranh sinh tồn trỗi dậy trong tiềm thức của nó. Cuộc sống càng thêm gian khổ khi Buck bị bán cho ba tên đi tìm vàng, những kẻ phiêu lưu sống bạt tử. Nó đã chiến đấu sống còn và thắng một con chó đầu đàn quái ác để trở thành chó đầu đàn. Bọn chủ cùng đàn chó bị ngã xuống vực băng mà chết. Buck may được một người tên là Thorntan cứu thoát. Từ đó, con người và con vật gắn bó với nhau bằng những tình cảm thần bí và sâu sắc. Buck thờ phụng chủ như một vị thần. Hai lần nó cứu sống chủ, có lần, nó mang lại cho chủ một món lời trên một nghìn đô-la trong một cuộc thách đố. Sau khi chủ bị người da đỏ giết, Buck không cưỡng lại được bản năng, theo tiếng gọi của hoang dã, trở về rừng với bầy chó sói đồng loại, nó được làm chủ. Hàng năm, nó không quên hành hương trở lại nơi Thorntan chết.
Tiếng gọi nơi hoang dã là một cuốn tiểu thuyết luận đề. Tác giả định thuyết minh cho thuyết tiến hóa của Darwin, sức mạnh của môi trường, quy luật thích nghi để tồn tại. Nhưng truyện kể rất hấp dẫn, các con vật đều có tính cách rõ rệt với đầy đủ anh dũng, tham vọng và độc ác. Đầu thế kỷ 20, tác phẩm được hoan nghênh bởi một lớp người công nghiệp hóa, thèm tính bản năng hoang dã và cuộc sống gần thiên nhiên.
Sói biển kể một truyện phiêu lưu biển cả. Một nhà văn là Humphrey (Hămphry) bị đắm tàu và được cứu bởi thuyền trưởng thuyền buồm “Con ma” là Wolf, một người rất cứng rắn và nhẫn tâm. Humphrey buộc phải làm hầu phòng, phải chịu ngược đãi. Trên tàu còn có nhà thơ nữ xinh đẹp Maude cũng được cứu thoát. Cả hai người đàn ông đều để ý đến cô. Một hôm chính thuyền buồm “Con ma” cũng bị đắm. Humphrey và Maude bơi được vào một hòn đảo hoang. Khi thân tàu bị đánh dạt vào đảo, nơi Wolf vẫn còn sống, y ngăn cản hai thanh niên chữa thuyền để về. Cuối cùng, y bị mù và liệt; cho đến khi chết, y vẫn nóng nảy và gan lỳ. Humphrey và Maude được cứu thoát, trở về với thế giới văn minh.
Nanh trắng là một tiểu thuyết có quá trình diễn biến ngược lại Tiếng gọi nơi hoang dã. Tác giả kể chuyện một con chó loại sói dần dần được thuần hóa. Nó bị chủ đầu đối đãi tàn tệ, muốn luyện nó trở thành con chó đánh nhau. Người chủ sau là một kỹ sư mỏ cứu được nó và đưa về nhà ở miền Tây, thuần hóa. Nó bị thương nặng trong khi bảo vệ gia đình chủ chống lại một kẻ tội phạm vượt ngục.
Gót sắt là cuốn tiểu thuyết viễn tưởng đặt vào khung cảnh thế kỷ thứ 26, bốn thế kỷ sau khi thế giới đại đồng thoát khỏi “gót sắt” của bọn tư sản thống trị. Tác giả coi như vào thời gian đó, ông phát hiện được tập nhật ký do nữ chiến sĩ cách mạng là Evit viết về hoạt động cách mạng của chồng mình là Ênơt bị bắt và bị hành hình vào năm 1932. Chuyện kể những sự việc từ 1912. Ênơt, công nhân, đảng viên Đảng xã hội, thuyết phục được nhiều người làm cách mạng xã hội, kể cả một vị giám mục. Anh bị bắt, vượt ngục, chuẩn bị hai cuộc khởi nghĩa đều bị “gót sắt” đàn áp. Mãi đến thế kỷ 23, “gót sắt” mới bị đánh bại. Phong cách tác phẩm có dáng dấp tiểu thuyết phiêu lưu trinh thám, tuy có thể xếp vào loại “văn chương vô sản”.
Sau đây là một số tư duy của Jack London:
Trong số một triệu người nghiện rượu, không một người nào bắt đầu uống một mình. Tật nghiện rượu bao giờ cũng có nguồn gốc xã hội và kèm theo hàng nghìn hệ quả có nguồn gốc xã hội.
Đấu tranh tức là sống, mà sống là đau khổ.
Cái đẹp có sức sống và sống vĩnh viễn, còn những lời nói thì trôi đi. Đó là cát bụi của những người chết.
Nếu tôi không thích cái gì đó, thì tại vì tôi không thích nó, có thế thôi; và không có gì trên đời này khiến tôi thích nó, không phải đại đa số những người cùng thời yêu thích hoặc giả dạng yêu thích nó. Những sở thích của tôi và những yêu ghét của tôi không theo mốt.
Trong đời này, tất cả mọi thứ đều có thể hủy hoại, trừ tình yêu.
Tình yêu không thể yếu đi. Nếu nó bị vấp ở trên đường và sụp đổ thì như thế không phải là tình yêu.