Cảo thơm lần giở: Hồ Chí Minh (1890 - 1969)

12-10-2018 15:06 | Văn hóa – Giải trí

SKĐS - Bài 1

Những nhận xét và đánh giá các chính khách thường chủ quan, yêu ghét bị chi phối bởi khuynh hướng hoặc bè phái chính trị nhất thời. Trường hợp Hồ Chí Minh không phải là ngoại lệ. Đánh giá Hồ Chí Minh, Hoàng Xuân Hãn, một nhà khoa học tự nhiên và xã hội ưu tú, một chính khách yêu nước trung lập, từng là Bộ trưởng của Chính phủ Bảo Đại đã có một thái độ khách quan. Trả lời phỏng vấn của đài RFI (Thụy Khuê thực hiện - Paris), ông nói: “Nói cái kết quả tức thì, nước mình bây giờ mà có độc lập, có thống nhất thì cái ấy là cái công của Hồ Chí Minh, to lắm. Dẫu là người ta dùng một chính sách gì, Cộng sản hay Quốc gia, thì cái công sau này đối với người viết sử người ta xét lại, không khác gì đời Lê Lợi mà rồi quân Minh phải về” (có nhiều phe phái, nhưng trên thực tế lịch sử, phe Lam Sơn đã mang lại độc lập). Hồ Chí Minh, theo ông Hãn, là một Nationaliste (theo chủ nghĩa dân tộc), chịu ảnh hưởng yêu nước của sĩ phu Nghệ Tĩnh, do hoàn cảnh trong nước và quốc tế, Hồ Chí Minh chọn con đường Mác-xít với mục đích giải phóng dân tộc.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tư tưởng chủ yếu của Hồ Chí Minh là “độc lập dân tộc”. Tư tưởng này được phản ánh cô đọng trong bản Tuyên ngôn Độc lập (ngày 2/9/1945).

Bàn về bản Tuyên ngôn này, nhà văn và nhà báo Mỹ Lady Borton cho biết:

“Hồ Chí Minh là cây bút nhà nghề, viết khỏe trong cả làng báo lẫn làng văn. Khi dự thảo Tuyên ngôn Độc lập, Ông đã chỉnh sửa thật kỹ lưỡng. Khi còn ở Tân Trào, “Lucius” tức Hồ Chí Minh, đã đại diện cho “Hamlet”, mật danh của nhân viên OSS (Mỹ) ở Côn Minh Charles Fenne, để hỏi về Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ. Một số nhà sử học đã nhầm khi cho rằng Hồ Chí Minh đơn thuần trích dẫn bản Tuyên ngôn của Hoa Kỳ. Không phải như vậy. Sự thực là Hồ Chí Minh đã chủ động chuyển hoán lời văn của Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, nhằm khẳng định quan điểm riêng của ông.

Mặc dù Hồ Chí Minh có trong tay bản Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc, ông đã dịch thoát câu đầu của văn bản này một cách có dụng ý. Câu trong nguyên bản tiếng Anh “Tất cả những người đàn ông sinh ra có quyền bình đẳng” (All men are created equal), ứng với thời kỳ đó tại Hoa Kỳ chữ “men” nghĩa là đàn ông da trắng, có tài sản, đã được Hồ Chí Minh chuyển thành “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng” (All people are created equal), tức là bao hàm cả phụ nữ và người dân tộc thiểu số. Đó chính là tiếng vọng của nguyện ước suốt đời mình của Hồ Chí Minh là: mọi người, không phân biệt nam nữ, đều là công dân của nước Việt Nam mới”.

Trong một bản tham luận đọc tại một Đại hội kỷ niệm sinh nhật Hồ Chí Minh, sử gia Nhật Bản Tsuboi cho là: Hồ Chí Minh có lẽ là nhà lãnh đạo chính trị duy nhất ở Đông Á nhận thức được một cách đúng đắn nhất tinh thần nền cộng hòa và đã cố gắng đưa nó vào Việt Nam. Tinh thần nền Cộng hòa Pháp của Cách mạng 1789 mang tính lý tưởng cao, như đã thể hiện trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng”, sự khác biệt căn bản nhất của thời Cận đại so với thời đại khác là sự thay đổi 180 độ quan điểm về giá trị con người. Đó là cách nhận thức con người bằng việc bài trừ những thuộc tính cá nhân. Lấy ví dụ, nó không quan tâm tới người đó là người Nhật hay người Việt Nam, sinh ra ở tỉnh nào, xuất thân trong gia đình hay dòng họ nào, bao nhiêu tuổi, là nam hay nữ.

Tsuboi đã lần theo những hành động của Hồ Chí Minh trong quãng thời gian 10 năm ông phát huy được năng lực lãnh đạo của mình nhất, tức là quãng thời gian từ lúc về nước năm 1941, sau ba chục năm bôn ba ở hải ngoại đến những năm 1950 để làm rõ lập luận của mình. Tinh thần Cộng hòa theo Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét trong bản Tuyên ngôn Độc lập và tên ông đặt cho đất nước sau Cách mạng Tháng Tám là: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sau đây là toàn văn bản Tuyên ngôn Độc lập:

“Hỡi đồng bào cả nước,

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.

Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.

Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.

Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.

Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.

Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.

Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

(Mời xem tiếp trên SK&ĐS số Chủ nhật 168)


Nhà văn hóa Hữu Ngọc
Ý kiến của bạn