Nói đến Nhật Bản là phải nói đến thơ haiku, loại thơ ngắn nhất thế giới, chỉ có 3 câu, tổng cộng 17 âm tiết (5 7 5). Nói đến thơ haiku, không thể không nhắc đến ông thầy của haiku là Bashô (Ba-sô, 1644-1694) - tức Ba tiêu thiền sư, ông là nhà thơ lãng du trên cõi trần.
Năm 1689, Bashô rời khỏi Giang Hộ lên miền Bắc xa xôi, lạnh lẽo, tìm những cảnh hoang vu của những đảo dân tộc Ainu. Ông phải bỏ cuộc vì ốm... Gần 300 năm sau, nhà văn Anh Kennith White (Kenit Oaitơ) cùng một nhà quay phim Anh đã lần theo dấu vết người xưa và làm lại cuộc hành trình, đi tiếp đến đảo Hôkaiđô.
Cuộc hành hương này chứng tỏ danh tính của Bashô, không những ở trong nước mà còn ở cả ngoài nước.
Matxuô Bashô đọc theo Hán-Việt là “Ba tiêu”, có nghĩa là cây chuối. Sở dĩ ông lấy tên hiệu này vì có lần, đồ đệ của ông trồng trước am thanh của ông một cây chuối.
Bashô sinh ra trong một gia đình “đẳng cấp võ sĩ” (Samurai), nhưng thuộc tầng lớp dưới, có làm cả ruộng đất. Bố chết, ông bỏ nhà đi lang thang, trở thành thầy dạy thơ haiku, nghe nói ông có hai nghìn đệ tử. Tinh thông Hán học, ông tu thiền, tiếp tục làm thơ và sống cuộc đời lang thang của một tâm hồn cô đơn trên trần thế, đắm mình trong cảnh đẹp hoang dã, thực hiện lý tưởng Sabi (nhập vào thảo mộc và khoáng vật để tiêu tan bản ngã). Năm 40 tuổi, ông ra đi một chuyến dài đến năm 1865, qua 12 tỉnh giữa Êđô và Kyôtô với mục đích tu luyện đạt tới thanh thản và giác ngộ; vừa lang thang, ông vừa gặp bạn bè, làm thơ và vãn cảnh. Bốn năm sau, ông định lên tít miền Bắc hẻo lánh để thực hiện lý tưởng Sabi, nhưng bỏ dở cuộc hành hương. Sau đó, ông trở lại thủ phủ Giang Hộ cho đến khi mất; ông không tìm cách xa lánh nhân thế, sống dửng dưng với cõi đời tục lụy, chấp nhận những ưu phiền với một chút hài hước nhẹ nhàng.
Bashô có công lớn đã canh tân thơ haiku, biến một thể thơ tầm thường, bông đùa, thành một thể thơ trữ tình vừa tuyệt mỹ vừa cao siêu. Haiku đã thành tập quán văn hóa Nhật; người Nhật có học nào cũng làm thơ haiku, nhưng làm một bài thơ haiku hay đâu phải là dễ. Hiện ở Nhật, có hàng chục tạp chí chuyên in thơ haiku, các báo hàng ngày thường dành một cột đăng thơ haiku.
Văn học thời Bashô đã có chất men tư sản do ảnh hưởng tầng lớp thương nhân thay thế đẳng cấp võ sĩ. Nhưng Bashô vẫn giữ nguồn cảm hứng Trung cổ và nâng niu thi tứ và hình thức thơ lên một trình độ cao. Ông để lại khoảng một nghìn bài thơ haiku. Thường thì một haiku diễn tả một ấn tượng, một trạng thái tâm hồn, thông qua một âm thanh hay một cái gì nhìn thấy, kết hợp với một câu gợi lên một mùa trong năm hay một cảm xúc. Thơ haiku của Bashô biến diễn từ thi cú cầu kỳ thời thanh niên, sang giọng thanh thản lâng lâng vào tuổi già. Những bài làm vào thời tài năng nở rộ gợi sự hài hòa giữa người và thiên nhiên.
Bể động
Trải ra phía đảo Sađô
Sông Ngân Hà
Bài haiku này miêu tả cái bản ngã hòa tan trong mênh mông biển, đất, trời.
Rất nhiều bài haiku là những nét ghi của tâm hồn:
Tiếng chuông chùa tan lắng
Hương anh đào còn ngân
Xâm xẩm tối
Thiền sư Ba Tiêu cám cảnh nằm nghe:
Cây chuối trong gió thu
Ta nghe giọt mưa tí tách
Rơi vào bể - Đêm
Một đêm, Bashô đi chơi thuyền cùng vài người bạn. Chờ trăng lên, người ta rửa cốc để uống rượu. Trăng mọc bên bể, như chiếc cốc vừa rửa xong:
Sóng dồn trên biển xanh
Hơi men rượu nếp
Trăng đêm nay
Cảm xúc nhìn bướm bay thật tế nhị:
Bướm liệng
Một mình trên cánh đồng:
Chiếc bóng trong nắng
Nghe tiếng ve:
Quạnh hiu
Tiếng ve kêu
Rơi vào hốc đá
Nhìn quạ:
Trên một cành khô
Quạ đậu
Chiều thu
Một tuần trước khi lâm chung, Bashô viết một haiku thanh thản:
Bông cúc trắng
Ta chăm chăm ngắm nhìn:
Không một hạt bụi
Nhưng sau đó mấy ngày ông viết:
Một chuyến đi đau buồn:
Hồn mộng lãng du
Trên bãi truông khô cằn
Không biết trên bãi truông là cuộc thế phù du, thiền sư đã tìm thấy nơi an nghỉ chưa.
Cuộc hành hương để tìm thoát ly ấy được thể hiện rõ nét trong tập du ký bằng văn xuôi kèm thơ: Đường mòn dẫn đến xứ Bắc hoang vu. Sau đây là một đoạn nói lên tiếng gọi phương xa:
“Tháng ngày là những du khách không ngừng đi. Năm đến rồi đi cũng là du khách. Những người sống bồng bềnh trên thuyền hay tóc bạc trên mình ngựa không ngừng lãng du, đi đến đâu lấy nơi ấy là nhà. Có nhiều người thời xưa chết ở trên đường. Đã bao năm qua, ta cũng đã từng bao lần nhìn áng mây trôi lờ lững trước gió mà chạnh lòng nhớ cảnh giang hồ.
Năm ngoái, ta đi lang thang dọc bờ biển. Mùa thu, ta trở về túp lều tranh bên sông, quét mạng nhện để ở. Nhưng rồi, năm qua xuân lại. Sương mù bao phủ. Ta lại muốn vượt qua ải Sirakawa để vào miền Ôku. Mọi vật quanh ta bị các vị thần lãng du phù phép, lòng ta xao xuyến, ta không tự chủ nổi, con đường ra hiệu cho ta.
Ta gói ghém mấy chiếc quần rách, thay quai chiếc nón tre...
(Bashô bán nhà ra đi, Một số bạn đi tiễn)
Khi ta đứng trên con đường có thể sẽ chia rẽ chúng tôi mãi trong cuộc đời mộng ảo này, ta khóc những giọt lệ biệt ly.
Mùa xuân sắp hết
Chim sẽ khóc trong khi
Lệ đầy mắt cá
Tôi làm bài thơ ấy, bài đầu của chuyến đi đó, nhưng tôi lấn bấn không bước nổi, vì khi quay đầu nhìn lại, thấy các bạn đứng một hàng trông theo có lẽ đến khi ta khuất mắt”.
Xin dịch thêm một số bài haiku của Bashô:
Lòng buồn rười rượi
Nghe chim gáy gáy,
Khiến ta thêm cô quạnh
Tỉnh dậy đi! tỉnh dậy đi!
Để kết bạn với ta,
Hỡi chú bướm đang ngủ.
Lại một năm qua,
Ta vẫn lang thang lữ hành
Với chiếc nón và đôi dép
Kìa quả ớt
Chắp đôi cánh
Con chuồn chuồn đỏ!
Đêm hè
Tiếng guốc của mình
Làm tĩnh lặng rung động
Vị củ cải cay cay
Tôi cảm thấy
Gió thu
Lá liễu rụng -
Sư phụ cùng tôi
Nghe tiếng chuông chùa.