Viêm BQ cấp nếu không được chữa trị đúng rất dễ chuyển thành viêm BQ mạn tính, khó chữa và có thể gây biến chứng, thậm chí nguy hiểm. Khi có dấu hiệu viêm BQ, cần đi khám bệnh càng sớm càng tốt, không để bệnh thành mạn tính.
Nguyên nhân do đâu?
Một số nguyên nhân cần lưu ý, đó là do vệ sinh cá nhân không tốt, nhất là nữ giới bởi lỗ tiểu gần hậu môn rất dễ nhiễm bẩn. Hơn nữa về cấu tạo, niệu đạo của nữ giới ngắn hơn nam giới. Vì vậy, sự lây nhiễm từ lỗ tiểu đến BQ gần hơn nam giới. Các tác nhân gây ứ đọng nước tiểu, nhất là ứ đọng nước tiểu ở BQ bởi sỏi, u, dị dạng BQ hoặc do thói quen nhịn tiểu, ngồi lâu, ngại đi tiểu, táo bón dài ngày, bệnh phụ khoa (nữ giới) hoặc sinh hoạt tình dục không đảm bảo vệ sinh rất dễ gây viêm BQ. Một số trường hợp viêm BQ do thao tác y tế như nội soi thăm dò BQ, thông BQ, dẫn lưu BQ, tán sỏi BQ hoặc phẫu thuật BQ (bởi dụng cụ y tế không đảm bảo vô trùng) có thể đưa đến nhiễm trùng BQ. Thông thường, viêm BQ cấp nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng sẽ dẫn đến viêm BQ mạn tính. Ngoài ra, viêm BQ mạn tính có thể do một số bệnh khác có liên quan như: viêm, tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến (nam giới) làm ứ đọng nước tiểu ở BQ hoặc người mắc bệnh đái tháo đường, hẹp bao quy đầu (nam giới) hoặc phụ nữ đang mang thai hoặc người dùng thuốc điều trị ung thư đưa qua đường tiết niệu...
Về căn nguyên, viêm BQ mạn tính chủ yếu là do vi sinh vật, trong đó vi khuẩn đóng vai trò đáng kể, nhất là họ vi khuẩn đường ruột, đứng hàng đầu là E.coli, sau đó là Proteus, Enterobacter, Citrobacter, Klebsiella... Tiếp đến là vi khuẩn họ cầu khuẩn, chủ yếu là tụ cầu da (S. epidermidis) hoặc tụ cầu hoại sinh (S. saprophyticus) hoặc do trực khuẩn mủ xanh (P. aeruginosa). Ngoài ra, viêm BQ còn có thể do vi khuẩn gây viêm niệu đạo cấp hoặc mạn tính đi ngược lên như: Chlammydia, Mycolasma.
Viêm bàng quang thường gặp ở phụ nữ hơn nam giới.
Dấu hiệu nhận biết
Đi tiểu nhiều lần, liên tục bởi niêm mạc BQ rất dễ bị kích thích do viêm là triệu chứng hay gặp nhất. Đồng thời, mót tiểu, tiểu buốt lan dọc đường đi của niệu đạo tới lỗ tiểu. Nhiều trường hợp nam giới tiểu buốt và đau dữ dội lan tới bẹn, bìu, quy đầu phải dùng tay bóp chặt dương vật cho đỡ đau. Đa số viêm BQ mạn tính có tiểu ra mủ (nước tiểu đục), thường thấy cuối bãi và có mùi hôi. Tiểu dắt (biểu hiện đi tiểu nhiều lần, mỗi lần chỉ có một ít nước tiểu), tiểu ra máu, có thể do tác động của sỏi BQ hoặc lao BQ và thường tiểu máu cuối bãi. Bụng dưới (dưới rốn) thường có cảm giác tức, rất khó chịu bởi BQ ứ đọng nước tiểu. Thỉnh thoảng có thể có thể có sốt, mệt mỏi.
Để chẩn đoán viêm BQ mạn tính, ngoài các dấu hiệu lâm sàng, tiền sử (mắc bệnh viêm BQ cấp), cần được siêu âm hệ tiết niệu, nội soi BQ, chụp Xquang, tốt hơn là chụp hệ tiết niệu bằng chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI).
Biến chứng của viêm BQ mạn tính đáng sợ nhất là gây nhiễm trùng ngược dòng làm viêm thận dẫn tới suy thận, tăng huyết. Trong khi đó, điều trị do suy thận vẫn còn gặp không ít khó khăn.
Phòng bệnh như thế nào?
Điều quan trọng nhất là không để viêm BQ cấp. Muốn vậy, cần vệ sinh vùng hậu môn, bộ phận sinh dục ngoài sạch sẽ mỗi ngày. Với phụ nữ không nên dội hoặc xịt nước rửa từ sau ra trước và thay vì tắm bồn bằng tắm vòi hoa sen. Không nên ngồi lâu (khoảng vài giờ nên giải lao, vận động cơ thể và đi tiểu) và không nên nhịn tiểu. Những người còn sinh hoạt tình dục nên vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục ngoài và đi tiểu trước và sau khi giao hợp.
Nếu có bệnh về tiền liệt tuyến (nam giới), bệnh phần phụ (nữ giới) cần chữa trị dứt điểm. Ngoài ra, hàng ngày nên uống đủ lượng nước (khoảng 1,5 - 2,0 lít), đều ít một, không uống dồn dập một lúc. Nên ăn thêm rau, canh (vì trong rau, canh có nhiều nước). Nên vận động cơ thể đều đặn hàng ngày bằng hình thức tập các động tác thể dục buổi sáng, đi bộ, chơi các môn thể thao nhẹ (cầu lông, bóng bàn, tennis...)..