Cảnh giác với dấu hiệu vàng da

09-04-2019 18:14 | Bệnh thường gặp
google news

SKĐS - Vàng da không đơn thuần là da có màu vàng mà niêm mạc hoặc kết mạc mắt cũng có thể bị vàng. Vàng da có thể là sinh lý (gặp ở một số trẻ sơ sinh) hoặc vàng da bệnh lý với nhiều nguyên nhân khác nhau. Cần biết được nguyên nhân gây vàng da để đề phòng và chữa trị đúng, tránh biến chứng…

Tại sao bị vàng da?

Da bị vàng (da, gan bàn chân, bàn tay và cả niêm mạc mắt, lưỡi vàng) là do sắc tố mật (bilirubin) tăng ở trong máu. Với trẻ sơ sinh, một số bị vàng da được gọi là vàng da sơ sinh (vàng da sinh lý) do tăng bilirubin gián tiếp rất hay gặp, chiếm 25-30% ở trẻ đủ tháng và đa số ở trẻ non tháng. Bệnh thường xảy ra trong tháng tuổi đầu tiên.

Vàng da sơ sinh sẽ hết sau một tuần với trẻ đẻ đủ tháng và sau hai tuần với trẻ đẻ thiếu tháng, nếu vàng da kéo dài có thể do bệnh lý.

Cảnh giác với dấu hiệu vàng da

Trong khi đó, với người lớn khi bị vàng da thường do bệnh lý. Có nhiều nguyên nhân gây nên bệnh vàng da, chủ yếu là do chức năng của các bộ phận gan, mật, tụy bất thường. Khi tế bào gan bị tổn thương, vỡ hay đường mật bị viêm, chèn ép (sỏi mật, giun chui ống mật làm tắc nghẽn, polyp hoặc u…) hoặc do xơ gan, ung thư gan, ung thư tụy… làm cho lượng sắc tố mật trong máu tăng lên gây tình trạng da, niêm mạc mắt, lưỡi, gan bàn chân, bàn tay bị nhuộm vàng của sắc tố mật. Đó là các bệnh viêm gan cấp tính hoặc mạn tính do virus A, B, C, D, E, G hoặc do ngộ độc (rượu, hóa chất) hoặc do mắc bệnh sốt rét, bệnh sốt vàng da, chảy máu (Leptosspira) đều có dấu hiệu bị vàng da.

Ngoài các bệnh về gan, mật, các bệnh khác như u đầu tụy, ung thư tụy (nhất là ung thư đầu tụy, vàng da ngày càng gia tăng) do làm cản trợ sự lưu thông của bilirubin, khiến da vàng nhiều; bệnh nhiễm trùng huyết do vi khuẩn đường ruột (Salmonella, E.coli), vi khuẩn tụ cầu vàng (S.aureus), trực khuẩn mủ xanh (P. aerruginosa) đều có khả năng gây tổn thương gan gây vàng da; vàng da có thể do bệnh tan máu bẩm sinh, bệnh Cooley, bệnh tự miễn, bệnh tan máu do lạnh hoặc vàng da do ngộ độc hóa chất, ngộ độc thuốc (ví dụ như clopromazin, paracetamol, thuốc chống lao, thuốc tránh thai…) làm tổn thương gan trầm trọng gây vàng da.

Cách nhận biết

Ngoài các dấu hiệu lâm sàng vàng da (vàng niêm mạc mắt, lưỡi, lòng bàn tay, bàn chân ngả vàng, nước tiểu vàng, thậm chí sẫm màu hoặc phân bạc màu trong bệnh tắc đường mật) cả người bệnh (người lớn) và bác sĩ đều nhận thấy, cần xét nghiệm để xác định nguyên nhân.

Khi xét nghiệm máu ở bệnh nhân vàng da sẽ thấy lượng bilirubin trong máu tăng cao ở cả 3 loại (bilirubin toàn phần, trực tiếp, gián tiếp). Bên cạnh đó lượng men gan AST (Aspartate aminotransferase) và ALT (Aanine aminotransferase) cũng tăng cao trên gấp đôi so với thông thường, cho thấy chức năng gan, mật, tuyến tụy của cơ thể đang bị tổn thương nghiêm trọng.

Ở trẻ sơ sinh sinh đủ tháng, bình thường nếu bị vàng da được coi là vàng da sinh lý khi vàng da xuất hiện sau 24 giờ tuổi, trong vòng 1 tuần với trẻ đủ tháng và 2 tuần đối với trẻ non tháng. Mức độ vàng da nhẹ (chỉ vàng da vùng mặt, cổ, ngực và vùng bụng phía trên rốn). Khi làm xét nghiệm máu, nếu vàng da sinh lý sẽ không có các triệu chứng bất thường khác (thiếu máu, gan lách to, bỏ bú, lừ đừ...). Nồng độ bilirubin trong máu không quá 12 mg% ở trẻ đủ tháng và không quá 14 mg% ở trẻ non tháng... Tốc độ tăng bilirubin máu không quá 5 mg% trong 24 giờ.

Khi nghi bị vàng da nên làm gì?

Khi nghi bị vàng da cần đi khám bệnh, tốt nhất là khám ở cơ sở y tế có đủ điều kiện với lý do là nếu vàng da nhẹ sẽ rất khó đánh giá, bởi vì, người Việt thuộc loại “da vàng”. Ngoài khám lâm sàng người bệnh còn được tiến hành các loại xét nghiệm máu về sắc tố mật, men gan và các kỹ thuật lâm sàng khác như siêu âm, chụp cắt lớp vi tính (Computer Tomograkhy: CT), chụp cộng hưởng từ (Magnetic Resonance Imaging: MRI), chụp đường mật ngược dòng… mới có thể xác định được nguyên nhân để có chỉ định điều trị đúng, kịp thời.

Cảnh giác với dấu hiệu vàng daXét nghiệm máu phát hiện bilirubin  giúp chẩn đoán vàng da.

Nguyên tắc điều trị

Tuỳ theo từng nguyên nhân sẽ có các chỉ định điều trị khác nhau. Khi được điều trị đúng, kịp thời, bệnh và triệu chứng vàng da cũng thuyên giảm theo. Việc điều trị nguyên nhân gây nên vàng da cũng tuỳ theo từng bệnh, có thể điều trị nội khoa (dùng thuốc) nhưng trong một số bệnh cần phải can thiệp bằng ngoại khoa (phẫu thuật) mới có thể giải quyết được căn nguyên gây vàng da (sỏi, u mật, tụy). Một số trường hợp không thể điều trị bằng nội khoa hoặc ngoại khoa như viêm gan do virus. Mọi trường hợp viêm gan do virus cho đến nay vẫn chưa có thuốc để điều trị đặc hiệu kể cả thuốc tây y và thuốc đông y, thuốc nam. Vì vậy nên lưu ý rằng, với viêm gan do virus, trong khi gan đang lâm bệnh nặng, tế bào gan đang bị tổn thương do virus tấn công, nếu dùng bất cứ thuốc gì không rõ nguồn gốc, người cho thuốc lại thiếu kiến thức về y học và không theo chỉ định của bác sĩ đều có thể làm tăng thêm sự tổn hại tế bào gan và bệnh sẽ trầm trọng thêm.

Cảnh giác với dấu hiệu vàng daChiếu đèn điều trị vàng da ở trẻ sơ sinh.

Đối với vàng da sơ sinh thường được áp dụng 3 phương pháp chính, đó là, cung cấp đầy đủ nước và năng lượng (qua cho bú hoặc truyền dịch), truyền albumin và dùng một số loại thuốc để gia tăng tốc độ chuyển hoá bilirubin gián tiếp. Hoặc chiếu đèn là phương pháp điều trị vàng da sơ sinh hiệu quả, an toàn, đơn giản và kinh tế nhất. Trong trường hợp thật cần thiết có thể thay máu khi trẻ có triệu chứng đe dọa nhiễm độc thần kinh do bilirubin trong máu tăng cao. Tuy nhiên, điều trị bằng phương pháp nào là do bác sĩ điều trị cân nhắc, xem xét cụ thể từng trường hợp bệnh nhân,  các bác sĩ có thể sử dụng 1-2 hay 3 phương pháp cùng lúc.

Khi tế bào gan bị tổn thương, vỡ hay đường mật bị viêm, chèn ép hoặc do xơ gan, ung thư gan, ung thư tụy… làm cho lượng sắc tố mật trong máu tăng lên gây tình trạng da, niêm mạc mắt, lưỡi, gan bàn chân, bàn tay bị nhuộm vàng của sắc tố mật.

Phòng vàng da như thế nào?

Để phòng hiện tượng vàng da do bệnh gan, mật gây ra cần tiêm phòng vắc- xin viêm gan, ăn uống hợp vệ sinh, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Không nên uống các loại rượu kém chất lượng như rượu tự nấu, rượu tự pha chế. Tốt nhất nên hạn chế hoặc không uống rượu, bia.

Nếu mắc các bệnh về đường dẫn mật (kể cả bệnh túi mật) cần được điều trị dứt điểm và để làm tốt việc này, người bệnh nên điều trị đúng chỉ định và nghe theo lời khuyên của bác sĩ khám bệnh cho mình. Những vùng đang có bệnh sốt rét lưu hành cần diệt muỗi, diệt bọ gậy bằng mọi phương pháp từ dân gian đến dùng hóa chất và tránh muỗi đốt bằng hình thức nằm màn khi đi ngủ.

Nên tẩy giun định kỳ để tiêu diệt giun và trứng giun, nhất là loại giun đũa để tránh hậu quả sỏi mật do giun chui ống mật để lại. Phụ nữ đang mang thai nên khám thái định kỳ để được theo dõi thai nhi và tư vấn dưỡng thai có hiệu quả tránh sinh non, thiếu tháng.


TS. BS. Đặng Bùi Bảo Linh
Ý kiến của bạn