Viêm gan siêu vi C (VGSV C) là bệnh nhiễm khuẩn mạn tính khá phổ biến, ảnh hưởng đến gần 3 triệu người tại Hoa Kỳ và hàng trăm triệu người khác trên toàn thế giới. Bệnh có thể kéo dài suốt đời mà không có triệu chứng nhưng một số trường hợp nghiêm trọng không được điều trị đúng cách cũng có thể tiến triển đến xơ gan hay ung thư gan và tử vong.
Các loại thuốc mới dùng điều trị viêm gan siêu vi C đã được giới thiệu là rất hiệu quả, có thể loại bỏ gần như hoàn toàn lượng virut gây bệnh VGSV C và giúp rút ngắn thời gian điều trị. Nhưng thời gian vừa qua đã xảy ra nhiều trường hợp điều trị VGSV C thất bại cũng như có biến chứng gây suy gan cấp và tử vong khi sử dụng các loại thuốc thế hệ mới. Do đó, cần thiết phải có sự cảnh báo cho người bệnh và tiếp tục nghiên cứu thêm về những tác dụng phụ nghiêm trọng của các loại thuốc mới, đắt tiền này.
Những tác dụng tích cực của thuốc
Các thuốc tác động trực tiếp kháng siêu vi (direct-acting antiviral drugs - DAAs) để ức chế sự nhân lên của siêu vi viêm gan C là một bước tiến lớn của y học và được Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) chấp thuận sử dụng từ tháng 11/2013. Thuốc rất hiệu quả, có thể loại bỏ virut viêm gan C xuống dưới ngưỡng phát hiện ở 89 - 99% số bệnh nhân được lựa chọn tham gia vào các nghiên cứu lâm sàng. Thời gian điều trị thường chỉ kéo dài 12 tuần thay vì 26 tuần như các thuốc kháng virut khác. Thuốc cũng được dung nạp tốt hơn, cắt giảm tỷ lệ bỏ thuốc gần một nửa nhưng giá các thuốc này khá đắt, chi phí điều trị cho một bệnh nhân VGSV C khoảng 55.000 - 125.000 USD. Mặc dù chỉ có khoảng 250.000 bệnh nhân VGSV C được dùng phương pháp điều trị này trong năm 2015 nhưng tổng chi phí đã vượt quá chi tiêu tương tự cho các thuốc giảm cholesterol, thuốc kháng sinh, thuốc hạ huyết áp mà mỗi quần thể bệnh nhân được tính bằng hàng triệu người.
Và những cảnh báo về tác dụng phụ nguy hiểm
Vào tháng 10/2016, FDA đã yêu cầu bổ sung thêm cảnh báo đối với các thuốc tác động trực tiếp kháng virut dùng điều trị VGSV C, trong đó có sofosbuvir, simeprevir và ledipasvir - sofosbuvir, sau khi xác định 24 trường hợp viêm gan siêu vi B đồng nhiễm bị tái hoạt do được điều trị VGSV C với các thuốc tác động trực tiếp kháng siêu vi từ tháng 11/2013 đến tháng 7/2016. Trong 24 trường hợp VGSV B tái hoạt nói trên có 3/24 bệnh nhân bị suy gan cấp nghiêm trọng. Các thuốc tác động trực tiếp kháng siêu vi đã ngăn chặn virut viêm gan C (HCV) phát triển đến mức không thể phát hiện được ở hầu hết các bệnh nhân nhưng tác dụng phụ của thuốc có thể đã kích hoạt lại virut viêm gan B (HBV) đồng nhiễm dẫn đến hậu quả nghiêm trọng phải ghép gan và đã tử vong. Các biến chứng này không được phát hiện trong quá trình thử nghiệm lâm sàng do đã loại trừ bệnh nhân đồng nhiễm HBV.
FDA khuyến cáo các bác sĩ nên kiểm tra tình trạng nhiễm HBV hoặc các vấn đề khác ở gan của bệnh nhân trước khi bắt đầu dùng các thuốc tác động trực tiếp kháng siêu vi điều trị VGSV C. Cần chú ý thực hiện các xét nghiệm theo dõi sự bùng phát hoặc tái kích hoạt của HBV trong và sau khi điều trị.
Sự việc này đã khiến cho Viện Thực hành y học an toàn Hoa Kỳ (Institute for Safe Medicine Practices - ISMP) lưu ý và bắt đầu tiến hành xem xét bổ sung ngoài các dữ liệu của FDA công bố. Trong báo cáo ngày 25/1/2017 của ISMP, qua khảo sát hồi cứu dữ liệu 12 tháng của FDA, người ta đã xác định thêm 524 trường hợp suy gan cấp tính ở bệnh nhân dùng thuốc kháng siêu vi trực tiếp, một hay hai loại kết hợp với nhau hoặc kết hợp với ribavirin để điều trị VGSV C. Gần 50% số trường hợp xuất hiện triệu chứng suy gan, tổn thương não dẫn đến mê sảng, thay đổi nhân cách, có hành vi tự tử, thức - ngủ đảo ngược và hôn mê. Có 165 trường hợp (31,5%) tử vong tại thời điểm báo cáo. Nhóm khảo sát cũng đã tìm thấy 1.058 trường hợp xuất hiện tổn thương gan nghiêm trọng nhưng chưa tiến triển đến suy gan. Ngoài ra, có 761 trường hợp điều trị kháng virut thất bại.
Thuốc paritaprevir kết hợp có liên quan nhiều nhất với các tác dụng phụ nghiêm trọng (34,5% trường hợp), tiếp theo là sofosbuvir (32,6%) và được các bác sĩ chuyên khoa báo cáo là do tác dụng phụ có hại tiên phát hay thứ phát liên quan đến thuốc, không phải do tiến triển của bệnh VGSV C.
Tóm lại, các thuốc tác động trực tiếp kháng siêu vi dùng điều trị VGSV C là một tiến bộ y học rất quan trọng. Tuy nhiên, khi dùng các thuốc tác động trực tiếp kháng siêu vi, việc xuất hiện số lượng lớn các trường hợp suy gan cấp phải ghép gan và tử vong, các trường hợp siêu vi viêm gan B đồng nhiễm bị tái kích hoạt, các trường hợp tổn thương gan nặng cũng như các trường hợp điều trị thất bại của các thuốc tác động trực tiếp kháng siêu vi đã cho thấy cần thiết phải cảnh báo cho người bệnh và cần tiếp tục nghiên cứu thêm đối với những tác dụng phụ nghiêm trọng của loại thuốc mới đắt tiền này.
Sự nhanh chóng phê duyệt áp dụng các phương pháp điều trị mới sẽ không lường hết được những tai biến do thuốc gây ra, thậm chí dẫn đến tử vong ở người bệnh. Điều này có thể tránh được nếu có những nghiên cứu về tính an toàn của thuốc kỹ lưỡng và hoàn chỉnh hơn đối với các bệnh nhân dễ bị tổn thương nhất.