Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi vẫn còn cao
Theo báo cáo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2020 của Viện Dinh dưỡng cho thấy, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng (SDD) thấp còi dưới 5 tuổi ở vùng miền núi chiếm tỷ lệ cao nhất 38% (đặc biệt có vùng lên tới 42%). Mặc dù tỷ lệ SDD toàn quốc đã giảm, tuy nhiên tỷ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ em là dân tộc thiểu số (DTTS) vẫn cao gấp 2 lần so với nhóm trẻ em là người Kinh (32% so với 17,1%), đồng thời tỷ lệ trẻ nhẹ cân cũng cao hơn gấp 2,5 lần so với trẻ em là người Kinh (21% so với 8,5%).
Hơn nữa, có tới 60% số trẻ em bị SDD thể thấp còi ở 10 tỉnh có tỷ lệ SDD thể thấp còi cao nhất cả nước là người DTTS. Không chỉ SDD thấp còi, nhẹ cân, tỷ lệ thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em các vùng núi và DTTS vẫn đang ở mức cao. Tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ em 6-59 tháng tuổi ở miền núi phía Bắc là 67,7% và Tây Nguyên là 66,6%. Tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở nhóm trẻ 6-59 tháng tuổi cao nhất ở khu vực miền núi phía Bắc (13,8%) và Tây Nguyên (11,0%) trong khi cả nước là 9,5%. Tỷ lệ thiếu máu ở nhóm trẻ 6-59 tháng cao nhất ở miền núi phía Bắc (23,4%) và Tây Nguyên (26,3%), trong khi cả nước là 19,6%.

Không chỉ SDD thấp còi, nhẹ cân, tỷ lệ thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em các vùng núi và DTTS vẫn đang ở mức cao.
Nguyên nhân của tình trạng này do chế độ dinh dưỡng thai kỳ không đảm bảo; Chiều cao của bố mẹ thấp (mẹ dưới 1m45, bố dưới 1m55); Một số phong tục về chăm sóc dinh dưỡng không phù hợp và vệ sinh cá nhân, môi trường chưa tốt cũng gián tiếp dẫn đến thấp còi; Kinh tế kém phát triển, dẫn đến bữa ăn của trẻ thiếu cả về số lượng và chất lượng.
Khẩu phần ăn của trẻ không hợp lý, trẻ không ăn đủ bữa tối thiểu, trẻ không được tiếp tục cho bú đến 1 tuổi, tỷ lệ trẻ có chế độ ăn đúng đủ ở vùng DTTS khoảng từ 33-52%, thấp hơn so với vùng đồng bằng (75%).
SDD thấp còi có thể ảnh hưởng đến vóc dáng, chiều cao, trí tuệ, sức đề kháng... Chiều cao thấp khi trưởng thành cũng là nguy cơ của tình trạng thừa cân, béo phì sau này. SDD thấp còi gây chậm phát triển về thể chất. Khi trẻ mắc bệnh, sự thiếu hụt dinh dưỡng làm cho cơ thể không đủ năng lượng và các vi chất để duy trì hoạt động và dành cho quá trình phát triển, khiến chậm phát triển hệ cơ xương nên trẻ chậm phát triển chiều cao, giảm tích tụ mỡ trong cơ thể làm trẻ gầy gò…
Đi đến năm 2025, Việt Nam đang đối diện với gánh nặng kép trong dinh dưỡng: vẫn còn cao tỷ lệ thấp còi, suy dinh dưỡng, đồng thời thừa cân và thiếu vi chất cũng lan rộng. Mục tiêu quốc gia đã được đặt rõ ràng, từ chế độ ăn đến trang thiết bị và truyền thông. Việc triển khai và phân bổ nguồn lực vẫn còn nhiều thách thức, đặc biệt ở các vùng khó khăn và nhóm dân tộc thiểu số. Song các bước cải thiện như nâng cấp thiết bị, xây dựng chính sách học đường, tăng cường hợp tác quốc tế… đang cho thấy định hướng chuyển biến tích cực trong tương lai.
Can thiệp dinh dưỡng sớm phòng chống thấp còi
Theo PGS.TS Lê Danh Tuyên, nguyên Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia, tăng cường đầu tư cho các can thiệp đã được chứng minh hiệu quả, chi phí thấp có thể cứu được mạng sống cho trẻ và phòng chống thấp còi.
Suy dinh dưỡng và tử vong trẻ em có thể phòng chống được bằng các giải pháp tương đối đơn giản và không quá tốn kém. Bổ sung sắt giúp trẻ tăng cường khả năng phòng bệnh, giảm tử vong mẹ khi sinh, góp phần dự phòng sinh non và sinh trẻ nhẹ cân. Bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tăng khả năng sống còn của trẻ lên đến 6 lần. Ăn bổ sung đúng thời điểm và hợp lý giúp trẻ tăng trưởng đúng tiềm năng, không bị thấp còi. Vitamin A phòng mù lòa và giảm nguy cơ tử vong của trẻ do các bệnh thông thường. Kẽm và thực hành vệ sinh phòng tử vong của trẻ do tiêu chảy.
Để làm được việc này, mạng lưới cộng tác viên dinh dưỡng là những cán bộ cộng đồng quan trọng trong việc đưa các can thiệp dinh dưỡng nói trên đến bà mẹ và trẻ em là đối tượng đích của chương trình. Chính phủ và các nhà tài trợ cần hợp tác để có thể duy trì đội ngũ cộng tác viên đầy đủ năng lực và nhiệt tình để hoạt động ngày càng hiệu quả thông qua việc tập huấn nâng cao năng lực và chế độ đãi ngộ phù hợp, đặc biệt với những cán bộ công tác tại những địa bàn khó khăn.

Chăm sóc dinh dưỡng 1000 ngày đầu đời rất quan trọng.
Các chỉ tiêu dinh dưỡng cần được xây dựng và thực hiện trong các chương trình quốc gia về dinh dưỡng và y tế cũng như được đưa vào các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Trong các giải pháp kỹ thuật, chiến lược có đề cập đến các can thiệp đặc hiệu vào 1000 ngày đầu bao gồm chăm sóc dinh dưỡng hợp lý cho bà mẹ trước, trong và sau sinh; thúc đẩy nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và ăn bổ sung hợp lý cho trẻ dưới 2 tuổi; cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em (thuộc chương trình Mục tiêu quốc gia về Y tế) đang được triển khai cũng bao gồm các hoạt động can thiệp tập trung vào nhóm đối tượng và thời điểm này.
Trong chu kỳ tới, ngoài các can thiệp định hướng 1000 ngày vàng, cần tiếp tục duy trì và củng cố hệ thống cán bộ dinh dưỡng ở tuyến cơ sở, đặc biệt sau việc luân chuyển và tái cơ cấu tổ chức của hệ thống y tế dự phòng, tăng cường việc huy động nguồn lực tại chỗ và các nhà tài trợ tiềm năng cho dinh dưỡng, hợp tác với khối tư nhân, song song với việc xây dựng và củng cố các chính sách luật lệ liên quan đến dinh dưỡng để thu hút đầu tư cho dinh dưỡng có hiệu quả nhưng cũng giữ gìn được an toàn cho các thực hành dinh dưỡng theo khuyến nghị.