Tuy nhiên, không phải hình thái glôcôm nào cũng có triệu chứng này. Glôcôm nhãn áp không cao rất ít triệu chứng, do vậy việc chẩn đoán bệnh rất khó khăn và thường được chẩn đoán muộn.
Glôcôm nhãn áp không cao là một hình thái glôcôm góc mở nguyên phát trong đó không có nhãn áp cao. Theo quan điểm hiện nay, glôcôm nhãn áp không cao không chỉ đơn thuần là bệnh lý của thị thần kinh trước mạn tính mà nó còn kết hợp sự bất thường của đĩa thị, dẫn đến thay đổi thị trường mà nhãn áp vẫn trong giới hạn bình thường. Như vậy sự khác nhau giữa glôcôm góc mở nguyên phát và glôcôm nhãn áp không cao là nhãn áp cao mà thôi.
Tiến triển của bệnh glôcôm nhãn áp không cao cũng như glôcôm nhãn áp cao. Hình thái thiếu máu tiến triển nhanh hơn. Tiên lượng tồi nếu như có kèm với tắc tĩnh mạch trung tâm võng mạc. Nếu không được điều trị, bệnh ngày càng tiến triển nặng lên, biểu hiện thị lực ngày càng giảm, thị trường ngày càng thu hẹp, cuối cùng dẫn đến mù lòa không thể hồi phục được.
Chẩn đoán xác định không đơn giản
Cũng như glôcôm nhãn áp cao, glôcôm nhãn áp không cao là bệnh diễn biến không triệu chứng, trừ những trường hợp tổn hại thị trường muộn, tổn hại thị trường nhiều. Bệnh thường được phát hiện ngẫu nhiên khi đi khám mắt hoặc khám sức khỏe định kỳ thấy lõm teo gai thị rộng, trong khi đó nhãn áp trong giới hạn bình thường, làm các khám nghiệm khác thì thấy tổn hại của bệnh glôcôm.
Hình ảnh tổn hại gai thị.
Theo dõi bệnh nhân glôcôm nhãn áp không cao, thấy sự dao động nhãn áp mà đỉnh dưới 21mmHg. Cần lưu ý đến nhãn áp đích, là ngưỡng mà khi vượt quá ngưỡng này sẽ gây ra tổn hại thị thần kinh và tổn hại chức năng thị giác như thị lực và thị trường. Cần lập biểu đồ theo dõi sự thay đổi nhãn áp trong ngày để giúp chẩn đoán xác định glôcôm nhãn áp không cao. Hiện nay, có thể theo dõi nhãn áp theo những giờ nhất định bằng cách sử dụng nhãn áp kế bút điện tử để theo dõi nhãn áp.
Trong glôcôm nhãn áp không cao, tổn hại gai thị không có sự khác biệt với các loại glôcôm khác, tuy nhiên, cũng có một số đặc điểm riêng: Lớp viền thần kinh quanh gai thị mỏng hơn so với glôcôm nhãn áp cao; Lõm gai không quá sâu và lớp lá sàng ít bị đẩy ra phía sau hơn; Hay gặp tổn hại viền thần kinh gai thị khu trú ở 1 vị trí kèm theo lõm gai thị sâu và thay đổi lớp lá sàng tạo thành hố gai thị mắc phải, 75% gặp ở glôcôm nhãn áp không cao so với 15% ở glôcôm nhãn áp cao.
Các triệu chứng khác đi kèm:
Một trong những dấu hiệu thường gặp nhất trong glôcôm nhãn áp không cao là teo võng mạc cạnh gai thị (vùng α và vùng β), tuy nhiên dấu hiệu này không đặc hiệu cho glôcôm nhãn áp không cao.
Xuất huyết gai thị: rất hay gặp trong glôcôm nhãn áp không cao.
Tổn hại lớp sợi thần kinh quanh gai thị: hay gặp tổn hại lớp sợi thần kinh khu trú ở một vị trí nào đó hơn là tổn hại toàn bộ chu vi gai thị.
Tuy nhiên, những dấu hiệu trên không đặc hiệu cho glôcôm nhãn áp không cao, không cho phép chẩn đoán xác định mà chỉ có giá trị gợi ý glôcôm nhãn áp không cao mà thôi.
Ngoài ra, soi góc tiền phòng thấy các góc mở rộng.
Tổn hại thị trường khu trú, khi thì gặp tổn hại thị trường hình cung 1/2 trên, khi thì gặp ở 1/2 dưới, cung có khi cả trên và dưới.
Chiều dày giác mạc trung tâm hiện nay là một yếu tố để đánh giá nhãn áp. Trong glôcôm nhãn áp không cao, chiều dày giác mạc trung tâm mỏng hơn bình thường, do đó nhãn áp thường bị đánh giá thấp hơn so với nhãn áp thực tế.
Mục đích để tìm các yếu tố nguy cơ, trên thực tế người ta khuyên nên theo dõi huyết áp 24 giờ, làm siêu âm mạch máu vùng cổ nếu như hỏi bệnh thấy có rối loạn mạch máu.
Chụp scanner hoặc chụp cộng hưởng từ nếu không có sự tương xứng giữa tổn hại thị lực, thị trường và gai thị.
Cần phân biệt với những loại glôcôm khác
Phân biệt với glôcôm nhãn áp cao đã được điều trị: đã sử dụng các thuốc hạ nhãn áp như thuốc ức chế β, ức chế men chuyển...
Với glôcôm nhãn áp thay đổi: là glôcôm góc mở do sự dao động lớn của nhãn áp. Khi đo vào lúc nhãn áp thấp dễ lầm tưởng với glôcôm nhãn áp không cao. Cần phải theo dõi chặt chẽ nhãn áp và lập đồ thị theo dõi nhãn áp trong ngày.
Glôcôm nhãn áp cao đã được điều trị ổn định: trước đó đã từng có nhãn áp cao như glôcôm do cortison. Đặc điểm là thị trường ổn định.
Phân biệt với bệnh lý thị thần kinh không phải do glôcôm. Tổn hại do chèn ép đường thị giác: Một số teo thị thần kinh do thoái hóa sợi trục thần kinh cũng gây ra lõm gai như trong bệnh glôcôm, nhưng trong trường hợp này gai thị bạc màu (teo gai thị). Bệnh thị thần kinh thiếu máu: lõm teo gai thị giống như trong bệnh glôcôm nhưng thị trường ổn định, không tiến triển.
Điều trị
Mục tiêu điều trị là đạt được nhãn áp đích: Điều trị hạ nhãn áp đến khi bệnh không tiến triển nặng hơn, mức độ hạ nhãn áp khác nhau tùy từng bệnh nhân. Tuy nhiên, mức độ hạ nhãn áp tối thiểu là 30% nhãn áp của bệnh nhân. Tìm và kiểm soát các yếu tố nguy cơ như phát hiện tăng huyết áp và điều trị tăng huyết áp, không dùng thuốc co mạch, phát hiện huyết áp thấp. Một số thuốc như thuốc ức chế men canxi, thuốc chống thiếu máu (nifedipine, adalat) có tác dụng giãn mạch, cũng có tác dụng tăng cường dinh dưỡng thị thần kinh.
Các phương pháp điều trị bao gồm dùng thuốc, phẫu thuật, vật lý trị liệu như prostagladine, laser vùng bè, phẫu thuật lỗ dò... Có thể dùng tất cả các loại thuốc hạ nhãn áp trừ thuốc ức chế beta không chọn lọc do có tác dụng gây co mạch. Chỉ định phẫu thuật khi dùng thuốc thất bại.