Hiện nay các vấn đề liên quan tới hội chứng hậu COVID-19 đang được người dân rất quan tâm. PGS.TS Lương Ngọc Khuê- Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh đã có những chia sẻ về nội dung này.
Hậu COVID-19 thể hiện trên cả góc độ tinh thần và thể chất
Theo PGS.TS.BS Lương Ngọc Khuê, vào tháng 10/2021, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã công bố chính thức về khái niệm "hậu COVID-19". Theo đó, hậu COVID-19 xảy ra ở người có tiền sử nhiễm SARS-CoV-2, thường là 3 tháng kể từ khi bắt đầu mắc COVID-19 với các triệu chứng và kéo dài ít nhất 2 tháng mà không thể giải thích bằng chẩn đoán thay thế.
Cũng theo WHO, hậu COVID-19 có thể khiến sức khỏe con người bị suy giảm kéo dài, có tác động nghiêm trọng đến khả năng quay trở lại làm việc hoặc tham gia cuộc sống xã hội của người bị mắc COVID-19. Họ bị ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và có thể gây ra những hậu quả kinh tế đáng kể cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội.
Phân tích rõ hơn về nội dung này, Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh cho biết, ở khía cạnh tinh thần, sau khi trải qua thảm họa đại dịch, đã chứng kiến những tác động của đại dịch tới bản thân, gia đình và xã hội, bộ phận người dân đã gặp phải những sang chấn tâm lý.
Do đó, người bệnh có thể cảm thấy stress, trầm cảm, lo âu, mất ngủ, hồi hộp… sau COVID-19. Thực tiễn điều trị cũng như các nghiên cứu khoa học cũng đã ghi nhận điều tương tự của người bệnh mắc các bệnh nan y hay trong các đại dịch nguy hiểm trước đó.
Đối với thể chất, một số biểu hiện hậu COVID-19 rất phổ biến có thể kể đến như các triệu chứng hô hấp.
Dẫn chứng thực tế tại Bệnh viện Bạch Mai, PGS.TS Lương Ngọc Khuê cho biết có 50-60% những bệnh nhân sau mắc COVID-19 với triệu chứng hô hấp kéo dài đến khám được chụp X-quang hoặc chụp cắt lớp vi tính lồng ngực thấy có tổn thương; Sốt nhẹ, khó thở, mệt mỏi, đau cơ, khớp, rụng tóc, xơ phổi, tim đập nhanh hoặc đánh trống ngực, rối loạn nội tiết, huyết học bị huyết khối…
Có trường hợp xuất hiện rối loạn tiêu hóa: ăn không ngon miệng, chán ăn, đau dạ dày, tiêu chảy; buồn nôn, nôn, đau thượng vị; Rối loạn vị giác hoặc khứu giác, phát ban…
Các triệu chứng về tâm thần như: rối loạn tâm lý, giảm sự tập trung, lo âu, trầm cảm, bồn chồn, rối loạn giấc ngủ, mau quên, không tập trung. Một số người xuất hiện tình trạng não sương mù, nhận thức kém, đọc chậm, giảm trí nhớ ngắn hạn, thay đổi tâm trạng.
Có phải ai sau khi khỏi bệnh cũng cần đi khám hậu COVID-19?
PGS.TS Lương Ngọc Khuê cho hay, không giống một số hội chứng hậu bệnh lý khác có xu hướng chỉ xảy ra ở những người đã bị bệnh nặng, hậu COVID-19 có thể xảy ra với bất kỳ người nào đã mắc COVID-19, ngay cả khi bị bệnh nhẹ.
"Thậm chí trong thời gian mắc bệnh, họ không có triệu chứng thì vẫn có thể bị hậu COVID-19 và nó có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em"- Cục trưởng Lương Ngọc Khuê nói và cho biết thêm, thực tiễn cho thấy, với bệnh nhân mắc COVID-19 mức độ nặng/nguy kịch, cần can thiệp y tế nhiều trong giai đoạn điều trị chính của bệnh, những người có bệnh nền thì các vấn đề về hậu COVID-19 sẽ nhiều và trầm trọng hơn.
Tuy nhiên, Cục trưởng Lương Ngọc Khuê cũng cảnh báo không ít trường hợp bác sĩ hẹn khám lại nhưng không tới khám, trong khi đó lại uống thuốc không rõ nguồn gốc trên mạng khiến tình trạng sức khỏe càng thêm yếu hơn.
Bộ Y tế đã có những bước chuẩn bị cho sự xuất hiện của hội chứng hậu COVID-19 từ trước đó
Trước câu hỏi Bộ Y tế đã triển khai những biện pháp nào trước thực trạng rất nhiều người dân than phiền rằng họ gặp một hoặc nhiều di chứng của COVID-19? PGS.TS Lương Ngọc Khuê thông tin: Hiện nay, đối với những di chứng về mặt tinh thần của người bệnh, Bộ Y tế đã giao Bệnh viện Tâm thần Trung ương xây dựng phác đồ cụ thể để hướng dẫn các bác sĩ điều trị các triệu chứng có liên quan.
Về mặt thể chất, Bộ Y tế cũng đã chỉ đạo các bệnh viện hướng dẫn, đưa ra những bài tập để giúp người dân tập luyện phục hồi chức năng. Đơn cử như Bệnh viện Phổi Trung ương sẽ xây dựng những bài tập thở, phục hồi chức năng phổi.
Khác với giai đoạn đầu, người bệnh mắc COVID-19 đều tập trung điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới. Bởi như chiến lược hiện nay của Bộ Y tế thì người bệnh sẽ điều trị hậu COVID-19 tại chính những bệnh viện chuyên khoa đã điều trị COVID-19 cho mình.
Từ đó, người bệnh sẽ được theo dõi, dự phòng và điều trị về tình trạng hậu COVID-19 của mình dưới sự giúp đỡ của các bác sĩ đúng chuyên khoa.
Ví như bệnh nhân COVID-19 có bệnh nền tăng huyết áp, tim mạch sẽ được điều trị tại bệnh viện tim mạch, bệnh nhân đái tháo đường mắc COVID-19 sẽ được chuyển tới bệnh viện nội tiết, trẻ em điều trị ở bệnh viện nhi.
Hay sản phụ có thể gặp những vấn đề về hậu COVID-19 liên quan tới chuyên khoa phụ sản, bởi vậy, chỉ cần quay lại bệnh viện sản để thăm khám, không cần thiết đi tới bệnh viện khác.
Còn đối với việc một vài bệnh viện thành lập phòng khám, chuyên khoa để thăm khám người bệnh hậu COVID-19, theo tôi là tốt, nhưng không cấp bách. Việc thành lập bệnh viện chuyên điều trị hậu COVID-19 cũng là không thực tế.
Thực tế điều trị cho thấy, rất nhiều trường hợp đã vượt qua các triệu chứng phổ biến hậu COVID-19 như trầm cảm, mất ngủ, lo âu kéo dài… chỉ bằng cách thay đổi suy nghĩ, tập luyện và cân bằng lại tâm lý. Tuy nhiên, những trường hợp có bệnh nền, tổn thương đã được bác sĩ hẹn khám lại thì cần phải đi tái khám.
Một vấn đề nữa, theo tôi cần phải khuyến cáo mạnh mẽ tới người dân, đó là nếu có triệu chứng hậu COVID-19 ảnh hưởng tới sinh hoạt thì cần đi khám tại các cơ sở y tế. Không thể sử dụng các loại thuốc không rõ nguồn gốc, không có giấy phép của Bộ Y tế hay các bài thuốc truyền miệng để chữa bệnh. Điều này không chỉ khiến bỏ lỡ "thời gian vàng" để điều trị bệnh mà còn có thể dẫn đến "tiền mất, tật mang".