Đặc biệt, ở những nơi tập trung đông người như trường học, bệnh viện, công sở, bể bơi... gây ảnh hưởng tới khả năng lao động, học tập và sinh hoạt của cộng đồng dân cư.
Bệnh phát triển mạnh vào mùa hè do khí hậu nóng ẩm, nhiều khói bụi và ô nhiễm là yếu tố thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh.
Tác nhân gây bệnh viêm kết mạc cấp
Vi khuẩn: Nhiều loại vi khuẩn có thể gây viêm kết mạc cấp như phế cầu, tụ cầu, liên cầu, lậu cầu, bạch hầu... Ở trẻ sơ sinh có thể bị viêm kết mạc do lậu cầu qua đường sinh dục của người mẹ bị bệnh lậu.
Virus: Gặp nhiều nhất là Adenovirus, thường lây lan mạnh gây ra các vụ dịch lớn (viêm kết mạc họng hạch) do đặc tính lây qua đường hô hấp và khả năng tồn tại được lâu ở ngoài môi trường, ngoài ra còn có virus Enterovirus, virus Herpes...
Dị ứng: Người bệnh tiếp xúc với tác nhân gây dị ứng dẫn đến đỏ nhanh 2 mắt ngứa nhiều, làm cho người bênh dụi tay lên mắt, và chính là nguyên nhân gây bội nhiễm, cũng có thể bị ngứa, sổ mũi. Bệnh hay tái phát nhiều đợt, tiết tố dai dính trắng, đôi khi có tiết tố vàng, nhạy cảm với ánh sáng, thị lực mờ. Cần chữa trị theo chỉ định của bác sĩ nhãn khoa.
Viêm kết mạc nhú gai khổng lồ: liên quan đến việc sử dụng kính áp tròng lâu dài.
Triệu chứng bệnh viêm kết mạc
Sau thời gian ủ bệnh (tính từ khi tiếp xúc với nguồn lây) 2-3 ngày sẽ xuất hiện các dấu hiệu ngứa mắt, cộm đỏ, chói, sợ ánh sáng, chảy nước mắt và có nhiều gỉ ở mắt. Nếu gỉ mắt nhiều buổi sáng ngủ dậy làm cho hai mi dính vào nhau nên bệnh nhân rất khó mở mắt.
Gỉ mắt cũng làm cho người bệnh thấy nhìn khó, vướng nhưng thị lực thường không giảm. Lúc đầu chỉ bị ở một bên mắt, sau ài ngày xuất hiện sang mắt còn lại.
Khi khám mắt thấy: mi mắt sưng nề đỏ, kết mạc nhãn cầu cương tụ, phù nề. Nhiều gỉ mắt (tiết tố) ở bờ mi và bề mặt kết mạc. Một số trường hợp có thể có xuất huyết (chảy máu) dưới kết mạc.
Nếu nguyên nhân gây bệnh là liên cầu, phế cầu, bạch hầu... thì kết mạc mi thường có lớp giả mạc che phủ, khi bóc giả mạc tái tạo nhanh.
Những trường hợp nặng có thể gây tổn thương giác mạc như viêm giác mạc chấm nông, viêm giác mạc đốm làm cho giác mạc bị mờ đục, khi đó thị lực giảm nhiều và kéo dài dai dẳng hàng tháng. Nếu nguyên nhân là Adenovirus thì người bệnh có thể bị sốt nhẹ, chảy nước mũi, có sưng hạch trước tai hoặc hạch góc hàm, viêm họng, amidan sưng viêm.
Điều trị viêm kết mạc
Người bệnh khi bị viêm kết mạc nên đến các cơ sở nhãn khoa khám để được chẩn đoán và tư vấn phương pháp điều trị thích hợp. Không nên tự ý mua thuốc về nhỏ mắt để tránh gây ra một số biến chứng nguy hiểm.
Ngoài ra cũng nên tránh sử dụng các thuốc lá cây để đắp hoặc xông mắt vì không những ít có tác dụng chữa bệnh mà còn có thể gây ra những tổn thương khác cho mắt như bỏng do nhiệt hoặc tinh dầu, một số loài nấm và vi khuẩn ở lá cây có thể xâm nhập qua vết xước giác mạc gây ra một bệnh lý rất nguy hiểm là viêm loét giác mạc.
Khi đó việc điều trị sẽ vô cùng khó khăn, tốn kém kinh phí mà di chứng để lại là sẹo giác mạc gây nhìn mở vĩnh viễn, một số trường hợp nặng phải khoét bỏ mắt.
Viêm kết mạc cấp hiếm khi phải dùng kháng sinh đường tiêm. Thông thường các bác sĩ chi kể kháng sinh nhỏ mắt 5 - 7 lần mỗi ngày. Nếu người bệnh có sốt, sưng hạch, viêm mũi họng thì có thể dùng kháng sinh đường uống như Cefixime, Augmentin....
Tra rửa mắt bằng nước muỗi sinh lý Nacl1 0,9% nhiều lần là điều rất quan trọng, có tác dụng rửa trỗi ghèn rử mắt cùng tác nhân gây bệnh ra ngoài giúp cho mau khỏi bệnh. Có thể sử dụng nước mắt nhân tạo nhỏ mắt ngày 4 - 6 lần để giảm cảm giác khó chịu.
Việc sử dụng thuốc nhỏ mắt có corticoide phải có chỉ định và theo dõi của bác sĩ nhãn khoa trong một số ít trường hợp. Nếu tự ý dùng thuốc có thể làm tình trạng bệnh nặng thêm hoặc gây biến chứng nguy hiểm.
Đối với những trường hợp viêm có giả mạc làm cho thuốc ngấm vào kết mạc kém, bác sĩ sẽ chỉ định bóc giả mạc 2 - 3 ngày một lần. Khi người bệnh có sốt, đau nhức có thể dùng thuốc hạ sốt giảm đau.
Nếu viêm kết mạc dị ứng bác sĩ kê đơn thuốc nhỏ mắt có kháng histamine hoặc các loại thuốc giúp kiểm soát tình trạng viêm, trường hợp nặng có thể thêm Corticoid hoặc kháng sinh khi bội nhiễm. Cần loại trừ tác nhân gây viêm dị ứng.
Nên ngừng đeo kính áp tròng khi có viêm kết mạc cấp.
Phòng bệnh viêm kết mạc
Bệnh lây từ người này sang người khác qua nước mắt và gỉ mắt có chứa nhiều tác nhân gây bệnh. Người bị viêm kết mạc hay lấy tay dụi mắt, sau đó cầm nắm vào các đồ vật sử dụng chung trong nhà, nơi làm việc, trường học… làm cho người khác khi sử dụng đồ vật đó bị lây, cũng có thể lây qua môi trường bể bơi tập thể.
Một số viêm kết mạc do virus còn lây bệnh qua đường hô hấp. Ở người bình thường, nước mắt được dẫn lưu xuống mũi qua hệ thống lệ đạo, khi viêm kết mạc, nước mắt chứa yếu tố gây bệnh được dẫn lưu xuống mũi họng. Khi người bệnh nói chuyện, hắt hơi dịch mũi họng bắn ra ngoài không khí sẽ gây bệnh cho người khác.
Để phòng tránh bệnh cần lưu ý:
- Người bị viêm kết mạc cần nghỉ học, nghỉ làm, hạn chế đến nhũng nơi đông người để tránh lây cho người khác.
- Sử dụng đồ vật riêng, không dụi tay lên mắt. Rửa tay trước và sau khi tra thuốc. Khi bắt buộc phải sử dụng các đồ vật chung phải rửa tay bằng xà phòng trước. Sau khi khỏi bệnh cần rửa sạch kính đeo mắt bằng xà phòng để tránh tái nhiễm.
- Không sử dụng một lọ thuốc tra mắt cho nhiều người.
- Không sử dụng nước muối tự pha để nhỏ mắt vì không đảm bảo vô trùng. Nồng độ muối và độ pH cũng không thích hợp với mắt. Ngoài ra nước muối tự pha còn thường có lẫn những tạp chất có hại cho mắt.
- Không vứt bừa bãi bông gạc sau khi sử dụng thấm rửa mắt. Thường xuyên giặt khăn mặt bằng xà phòng và phơi nắng. Các phòng khám cần vệ sinh tay và sát trùng dụng cụ đúng quy trình.