Nhớ lại vào đầu những năm 80, chị Anne Marie J. đưa cho tôi một cuốn sách Nhật dịch sang tiếng Pháp và bảo tôi: “Anh cứ đọc kỹ sách này và sẽ hiểu nhiều về dân tộc Nhật!”. Chị là người Mỹ, lấy chồng là một nhà báo Pháp. Chị ở Nhật lâu, rất sành về văn học Nhật. Chị xinh đẹp, thông minh, yêu đời. Tiếc thay! một ngày Tết, tôi nhận được tin chị tự tử ở Băng Cốc. Không biết có mảy may nào do ảnh hưởng triết lý về sự sống cái chết của người Nhật (coi nhẹ cái chết)?
Cuốn sách tiếng Nhật chị đưa cho tôi tên là Narayama, chỉ độ hơn trăm trang, nhưng khi xuất bản năm 1956 được coi là một sự kiện văn học hậu chiến ở Nhật và trên thế giới. Cuốn phim Nhật dựa vào tác phẩm ấy được nhà sử học người Pháp G.Sadoul đánh giá là đã tạo nên “một không khí truyền thống bị phù phép”.
Tôi nhớ lại lời nhận xét của chị J. khi đưa tôi cuốn sách: “Ngay những năm đầu thập kỷ 50, không phải ở Nhật ai cũng được ăn no đâu!”. Nước Nhật trước đây là nước nghèo nàn, thiếu đất trồng trọt, sống khắc khổ. Thời phong kiến, đặc biệt từ thế kỷ 15 - 19, các lãnh chúa đã hạn chế sinh đẻ một cách gay gắt để dân số không vượt quá 25-26 triệu người. Phá thai không những không bị cấm mà còn được pháp luật quy định và khuyến khích. Nạn nhân mãn là nguy cơ thường xuyên, bối cạnh xã hội ấy làm nền cho truyện Narayama.
Tác giả Shichiro Kukuzawa là người ở quê nghèo vùng núi, chỉ học hết cấp II trung học, rồi ông chơi đàn cho một đoàn tạp kỹ. Mãi năm 42 tuổi, ông mới nổi tiếng nhờ cuốn sách ấy. Dựa vào một truyền thuyết địa phương, ông đã miêu tả cái đói truyền kiếp của một làng miền núi điển hình. Tác phẩm mang triết lý: con người là sinh vật có nhu cầu cơ bản là ăn để tồn tại. Cái ăn chi phối luật pháp và luân lý của cộng đồng nhỏ ấy, với cái đẹp, cái xấu, cái tàn nhẫn và cái đau khổ. Đê tiện và cao thượng đan xen.
Cái ăn thiếu đến mức khi một gia đình đào trộm khoai đã bị cả làng chôn sống. May mà người ta vẫn còn tin một phần vào cái nghiệp và lòng từ bi của đạo Phật.
Hai nhân vật chính là bà lão Orin và con trai là Tapêi. Bà lão 90 tuổi đi hành hương núi Cấm Narayama. Hành hương đây có nghĩa là bỏ làng đi để chết âm thầm nơi hoang vu, đỡ một miệng ăn cho cộng đồng. Phong tục là như vậy. Người con trai cõng mẹ trên lưng, buộc bà vào một tấm ván áp sát lưng mình. Vào đường núi, gặp không biết bao nhiêu xương và đầu lâu phơi trắng, có những bộ ruột quạ rỉa chưa hết. Khi đi, cấm nói, người trở về cấm quay đầu lại. Tác giả kể chuyện bằng những bài ca ai oán. Dưới đây xin trích dịch đoạn người con cõng mẹ lên núi, ra về mà lòng xót xa:
“Bà lão đứng thẳng trên chiếu, chắp tay trước ngực, mắt nhìn xuống đất. Bà dùng thừng thay thắt lưng. Tapêi chăm chú nhìn mẹ. Toàn thân bà không động đậy, dáng dấp một người đã chết. Rồi bà giơ hai tay nắm tay con trai. Toàn thân anh nóng như lửa, mồ hôi rơi lã chã. Bà nắm chặt hai bàn tay, đẩy mạnh lưng anh. Tapêi bắt đầu quay về. Anh bước đi, giữ đúng lời nguyền của kẻ hành hương: không quay đầu lại. Đi được mươi bước, anh giơ lên trời miếng ván đã dùng để cõng mẹ trên lưng, và khóc sướt mướt. Anh bước xuống núi như người say rượu, luôn bị vấp. Xuống một quãng nữa, anh va chân phải một xác chết, té nhào, mặt đập vào một bộ mặt thịt đã rữa. Anh lồm cồm bỏ chạy xuống núi. Đến lưng chừng, có cái gì như một thứ bọt trắng bay giữa những cây sồi. Tuyết! Tapêi reo lên: “Trời ơi!”.
Anh say sưa ngắm tuyết. Sự việc xảy ra đúng như mẹ thường báo trước một cách tự hào: “Mẹ ấy à! Khi nào mẹ đi hành hương vào núi, hẳn tuyết sẽ rơi!”. Tapêi kiên quyết quay lại, muốn đích thân báo cho mẹ biết “tuyết bắt đầu rơi, tuyết rơi thật mà!”. Leo tới chỗ bà mẹ, tuyết đã phủ trắng xoá mọi vật. Anh nấp sau một tảng đá xem thái độ mẹ. Anh lại sắp phá lời nguyền thứ hai: Cấm nói!
Bà mẹ già ngồi kia. Để che tuyết, bà phủ chiếc chiếu phía sau lên đầu, nhưng tuyết đã phủ trắng mái tóc đằng trước, ngực, đầu gối của bà. Mắt nhìn phía trước, bà niệm “Nam mô A Di Đà Phật!”. Tapêi hét to: “Mẹ ơi! Có tuyết đấy!”. Bà mẹ nhẹ nhàng giơ tay lên khẽ vẫy về phía con, ý muốn nói: “Về đi con!”. “Mẹ ơi! Mẹ sẽ bị lạnh đấy!”. Bà mẹ lắc đầu mấy lần. Tapêi nhận thấy không còn con quạ nào nữa. Tuyết xuống, có lẽ quạ bay về phía làng xóm, anh tự nhủ. Tuyết xuống là đáng mừng, người phủ tuyết hẳn đỡ rét hơn phơi mình trước gió lạnh ngoài núi. Anh nghĩ: “Như thế, rồi mẹ sẽ ngủ!”.
- Mẹ ơi có tuyết đấy! Mẹ thật có phúc!
Rồi anh hát tiếp bài hát được lưu truyền không biết từ đời nào, bài hát của những người đói quyết tìm đến cái chết, nhường sự sống cho con, cháu…”.