Cải cách giáo dục qua con mắt của một công dân

07-10-2019 08:17 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - Kỳ 2 (Tiếp theo số 156 và hết)

Nhiều thầy cô giáo cho rằng học sinh thụ động trong học tập. Tôi cho rằng, điều đó chưa thật chính xác.Trước hết, phải giảm tải chương trình và cải tiến phương pháp dạy, tạo cho học sinh có niềm say mê, có thời gian để tự học, tự khám phá với sự trợ giúp của thầy cô giáo. Đặc biệt chú ý giáo dục kỹ năng thuyết trình trước đông người và kỹ năng hoạt động nhóm. Với chương trình hiện nay, cả thầy và trò luôn phải chạy theo cho kịp, còn đâu thời gian để làm việc khác như vừa nói.

Ở Việt Nam, học sinh có tâm lý sợ thầy cô giáo. Trong khi đó, ở các nước phát triển, học sinh không ngại tranh luận với thầy cô giáo và bày tỏ suy nghĩ cá nhân của mình. Chương trình và phương pháp dạy của chúng ta áp đặt, hay máy móc quá chăng? Ngay từ nhỏ, các em đã được nghe câu: “Cô giáo như mẹ hiền” hay “Thầy cô giáo như cha mẹ”. Ở trong cách nhìn nào đó, những câu nói ấy là đúng; nhưng trong môi trường sư phạm hiện nay, ý nghĩa của nó có phần nhạt phai và biến nghĩa. Học sinh phục tùng thầy cô nhiều hơn là sự kính trọng.

Nên chăng xóa bỏ trường chuyên, lớp chọn? Tất cả các trường bình đẳng trong môi trường giáo dục chung. Điều này giảm thiểu việc chạy trường, chạy lớp mỗi khi đến năm học mới. Ngoài các môn bắt buộc theo chuẩn chung, nên có một số môn tự chọn. Các môn tự chọn có giá trị ngang nhau, giúp học sinh phát huy năng khiếu và sở thích cá nhân.

Nói tóm lại, đã là giáo dục phổ thông thì kiến thức phải đúng nghĩa phổ thông. Với chương trình nhẹ, hợp lý, học sinh có nhiều thời gian tham gia các hoạt động ngoại khóa mang tính cộng đồng. Điều đó rất có ý nghĩa trong việc hình thành nhân cách, hòa nhập xã hội một cách tự tin khi bước vào đời.

Học sinh cần có nhiều thời gian tham gia các hoạt động ngoại khóa.

Học sinh cần có nhiều thời gian tham gia các hoạt động ngoại khóa.

Giáo dục bậc đại học ở Việt Nam hiện nay không khác mấy với giáo dục phổ thông. Có thể coi các năm học ở đại học là lớp 13, 14, 15... Việc mở trường đại học và tuyển sinh tràn lan hiện nay cũng làm cho bộ mặt đào tạo đại học thêm lem nhem, ố màu kinh tế thị trường. Tạm thời ta chưa đề cập đến việc đào tạo đại học ở đây, nhưng tôi muốn đưa vài suy nghĩ cá nhân về việc thi và xét tuyển vào đại học. Việc này sẽ tác động trở ngược lại quá trình giáo dục phổ thông. Đây là ý kiến mang tính cá nhân, tôi đưa ra với ý nghĩa gợi mở vấn đề:

Nên chăng khi thi tuyển vào đại học, cao đẳng ở tất cả các ngành học phải thi 2 môn bắt buộc là Văn và Toán. Các trường hoặc ngành có đặc thù riêng, đòi hỏi năng khiếu sẽ thi thêm môn thứ 3. Ví dụ: Muốn học ngành kiến trúc, cần thi thêm môn Vẽ. Muốn học ngành y, thi thêm môn Sinh... Đa số các ngành học không cần phải thi thêm. Ví dụ: các ngành tài chính, ngân hàng, quản trị kinh doanh, cơ khí chế tạo máy, ôtô, tàu thủy, tin học, điện... đều không cần phải thi thêm môn thứ 3.

Khi xét tuyển, ngoài điểm thi, có thể dùng điểm quá trình của 3 năm học cấp 3 làm yếu tố tham khảo. Tuy chỉ thi 2 môn, nhưng khi xét tuyển sẽ có sự chọn lọc ngay từ đầu. Ví dụ: Bách khoa lấy điểm chuẩn xét tuyển là 15 điểm (tổng điểm của 2 môn Văn, Toán) với điều kiện: điểm toán từ 8 điểm trở lên và môn văn không dưới 5 điểm. Đại học KHXHNV có thể cũng có điểm chuẩn là 15 điểm nhưng ưu tiên cho thí sinh có điểm Văn cao hơn. Với cách thi và xét tuyển như vậy, các trường hoàn toàn có khả năng tuyển được sinh viên phù hợp với ngành học.

Việc thi đại học với 2 môn bắt buộc Văn và Toán sẽ tạo nên sự thay đổi ở bậc giáo dục phổ thông. Chúng ta sẽ có một xã hội với những con người giàu nhân văn hơn chứ không phải là những con người với kiến thức khoa học khô cứng. Cách làm này không có gì mới vì nó gần giống với cách tuyển sinh đại học tại Mỹ. Ở Mỹ, khi vào đại học, học sinh cần có điểm thi SAT 1. Bài thi SAT 1 gồm 2 phần Toán và Tiếng Anh (Mỹ). Chỉ một số ngành học cần điểm SAT 2, giống như việc thi thêm môn thứ 3. Tôi cho rằng đó là cách làm hay mà chúng ta cần tham khảo.

Trở lại vấn đề giáo dục tiểu học, như trên đã nói, đây là bậc học quan trọng nhất nên cần quan tâm kỹ lưỡng khi thực hiện cải cách giáo dục. Có rất nhiều học sinh không có điều kiện theo học mẫu giáo nên rất bỡ ngỡ với môi trường mới. Lứa tuổi tiểu học là lứa tuổi non nớt về thể chất và trí tuệ. Việc đưa khối lượng kiến thức khó vào bậc tiểu học là phản khoa học, không phù hợp với tâm sinh lý của học sinh ở lứa tuổi này. Nhiều học sinh có cảm giác sợ đến lớp mà lẽ ra được đến lớp phải là một niềm vui. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh đã phải học thêm. Các em dường như bớt đi vẻ hồn nhiên khi phải mang chữ “học” quá nặng trên vai. Những cuốn SGK tiểu học dày cộp như sách bác học, trong đó có nhiều thứ mà phụ huynh cũng còn thấy khó. Cặp sách học sinh tiểu học nặng đến oằn vai. Tuổi thơ của các em bị đánh cắp, chỉ còn lại việc học như một cực hình.

Với bậc tiểu học, chỉ cần đọc thông, viết thạo cơ bản tiếng Việt, biết cộng trừ nhân chia thành thạo và biết một số phép tính đơn giản về tỷ lệ thuận, tỷ lệ nghịch... Bên cạnh đó là một vài môn học nhẹ nhàng giáo dục tình yêu kính cha mẹ, thầy cô, yêu quý bạn bè, yêu quê hương đất nước là đủ rồi. Thời gian còn lại dành cho hoạt động ngoại khóa, vui chơi... sao cho mỗi ngày các em đến lớp là một ngày hạnh phúc. Dấu ấn về một thời thơ ấu đẹp đẽ còn theo các em suốt cuộc đời, giúp ích rất nhiều cho các em trưởng thành về nhân cách sau này.

Việc biên soạn sách giáo khoa tiểu học cần đặc biệt chú ý về nội dung, hình thức, khối lượng kiến thức phù hợp... sao cho tất cả các cuốn sách đều mỏng, co chữ đủ lớn chứ không dày “vĩ đại” và đặc chữ như hiện nay. Khi nhìn học sinh tiểu học già dặn trước tuổi, nhẫn nại cõng cặp sách đến trường với cặp kính cận lấp lóa mà thấy mủi lòng. Những kiến thức đưa vào quá sớm so với lứa tuổi là những kiến thức thừa. Làm như vậy là lãng phí không chỉ thời gian, tiền bạc mà lãng phí cả quãng đời thơ ấu đẹp nhất của con người, làm cằn cỗi tâm hồn bao thế hệ.

Một học sinh phổ thông khi học ở nước ngoài về đã nói với tôi: “Chương trình lớp 12 của họ còn nhẹ hơn chương trình lớp 11 ở Việt Nam. Học sinh của họ không phải đi học thêm hàng ngày. Vậy tại sao đất nước họ lại phát triển hàng đầu thế giới?”. Câu hỏi không dễ trả lời. Còn nữa: “Tại sao ta không nhập khẩu chương trình giáo dục tiên tiến của họ, rồi điều chỉnh cho phù hợp với văn hóa, lịch sử, hoàn cảnh xã hội Việt Nam... mà lại cứ mò mẫm cải cách, rối như canh hẹ?”. Câu hỏi đó dành cho những người nắm trọng trách của ngành giáo dục.

Cải cách giáo dục cần tiến hành cải cách toàn diện nền giáo dục chứ không phải chỉ cải cách chương trình dạy học hay sửa đổi SGK. Một việc cần làm song song là nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên cả về chuyên môn lẫn đạo đức nghề nghiệp. Muốn vậy, cần tăng thu nhập, cải thiện đời sống giáo viên giúp các thầy cô giáo có thể sống và gắn bó với nghề. Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường, cải thiện điều kiện làm việc, giúp giáo viên có điều kiện giảng dạy tốt và tự nâng cao trình độ.

Bạn nghĩ gì khi ở Việt Nam có trường tiểu học cơ sở vật chất thiếu thốn lại có tới hơn 100 lớp; Mỗi lớp từ 50 đến gần 60 học sinh? (Đó là Trường tiểu học An Hội, quận Gò vấp TP.HCM với 5.365 học sinh). Bạn nghĩ gì khi có học sinh cấp 2 vẫn chưa biết đọc, biết viết một cách bình thường? Bạn nghĩ gì khi một học sinh giỏi cấp thành phố không được thi tốt nghiệp cấp 2 chỉ vì đi học sớm, thiếu 1 tuổi so với quy định? Bạn nghĩ gì khi Bộ trưởng NTN gửi thư ngỏ đến các cơ quan, đoàn thể, các doanh nghiệp xin tiền Tết cho giáo viên? Bạn nghĩ gì khi hàng ngàn ý kiến, bài báo viết về giáo dục bị lãng quên? Bạn nghĩ gì khi nạn tham nhũng, bệnh thành tích, quan liêu, cửa quyền, thói giả dối, lối sống vô cảm... trở nên bình thường ở tất cả các ngành? Giáo dục luôn tương tác với xã hội. Việc cải cách giáo dục không còn là chuyện riêng của ngành giáo dục mà cần có sự quan tâm của toàn xã hội, mà trước hết, trách nhiệm thuộc về các nhà lãnh đạo và hoạch định giáo dục cấp cao.

Ngân sách dành cho giáo dục là không nhỏ, nhưng chúng ta đã lãng phí và thất thoát nhiều vào những dự án kém hiệu quả. Sự thiếu minh bạch trong các dự án cải cách giáo dục cũng là một trở ngại tiêu cực cho công cuộc chung. Khi hình ảnh của ngành giáo dục xấu đi, đời sống giáo viên thấp kém, chúng ta không có cơ hội thu hút những học sinh giỏi vào ngành sư phạm. Người đang trong ngành cũng không tha thiết với ngành. Thầy đã không giỏi lại tiêu cực thì việc tụt hậu của nền giáo dục nước nhà là đương nhiên, kéo theo sự tụt hậu của cả xã hội trong tương lai không xa.

Đầu tư cho con người vẫn là đầu tư tốn kém và xứng đáng nhất. Nhân tài là nguyên khí quốc gia. Con người là tài sản quý nhất của bất kỳ doanh nghiệp nào. Nên chăng cần có đãi ngộ xứng đáng với những thầy cô giáo đã và đang trực tiếp đứng trên bục giảng, đưa ngành giáo dục về đúng vị trí mang tính chiến lược của nó trong việc đào tạo con người, phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Thiết nghĩ, đó là ý nghĩa quan trọng nhất của việc cải cách giáo dục. Chấn hưng giáo dục không còn là chuyện riêng của ngành giáo dục mà cần coi đó là quốc sách. Có như vậy, chúng ta mới dần có được một nền giáo dục tiên tiến trong một đất nước phát triển, dân chủ và văn minh.


Nhà thơ Trần Đăng Khoa
Ý kiến của bạn