Bệnh lỵ trực trùng (hay lỵ trực khuẩn) là bệnh nhiễm khuẩn đường ruột cấp tính do trực khuẩn Shigella gây ra. Dấu hiệu chính của nhiễm Shigella là tiêu chảy và phân thường có lẫn máu. Bệnh lây truyền chủ yếu qua tiếp xúc trực tiếp với các vi khuẩn trong phân; qua thức ăn, nước uống bị nhiễm khuẩn...
Các loại côn trùng như ruồi, nhặng, gián, thạch sùng... làm lây bệnh từ bệnh phẩm sang thức ăn. Mọi người đều có thể lây bệnh, trong đó trẻ em và người già dễ mắc bệnh lỵ nặng, dễ tử vong.
Dấu hiệu nhận biết
Một người bị nhiễm vi khuẩn lỵ, thì thời gian ủ bệnh từ 1 - 7 ngày, sẽ phát bệnh một cách đột ngột, với 2 hội chứng: nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ. Hội chứng nhiễm khuẩn gồm các triệu chứng: sốt cao 38 - 39 độ C, rét run, nhức đầu, mệt mỏi, đau lưng, đau khớp, ở trẻ em có thể có cơn co giật, chán ăn, khát nước, đắng miệng, buồn nôn hoặc nôn.
Bệnh lỵ trực khuẩn là bệnh nhiễm khuẩn đường ruột cấp tính do trực khuẩn Shigella gây ra.
Hội chứng lỵ. gồm các triệu chứng: đau bụng, ban đầu đau âm ỉ quanh rốn, sau đau lan ra khắp bụng, cuối cùng là những cơn đau quặn bụng ở hố chậu trái. Các cơn đau quặn bụng làm bệnh nhân mót rặn muốn đi đại tiện ngay. Mới đầu phân sệt, sau loãng, rất thối, lẫn với nhầy và máu. Hoặc phân nhầy nhiều, thường đục nhờ nhờ, có khi phân vàng đục như mủ, máu sẫm như máu cá, nhầy và máu hòa loãng với nhau không có độ bám dính. Hội chứng lỵ có thể diễn ra từ 5 - 10 ngày hoặc hơn.
Trên thực tế người ta phân chia bệnh lỵ thành các thể bệnh như sau:
Thể nhẹ: Bệnh nhân xuất hiện hội chứng nhiễm khuẩn nhẹ hoặc không rõ, thân nhiệt 37,5 - 38 độ C, hơi mệt, có hội chứng lỵ: đau quặn bụng, đi ngoài dưới 10 lần/ngày, bệnh nhân phục hồi trong vòng 1 tuần.
Thể vừa: Bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ điển hình. Sốt 38 - 40 độ C kéo dài từ 1 - 4 ngày, đau đầu, mệt mỏi, mạch nhanh, huyết áp hạ. Đi tiêu chảy từ 15 - 20 lần/ngày, kèm theo dấu hiệu mất nước, với biểu hiện khát nước, môi khô. Điều trị tốt, bệnh nhân sẽ phục hồi sau 7 - 14 ngày.
Thể nặng: Hội chứng nhiễm khuẩn rõ rệt, kéo dài hơn 1 tuần. Hội chứng lỵ: đau quặn bụng dữ dội, mót rặn kèm mót đái không kìm được, đi tiêu chảy trên 30 lần/ngày, có khi không đếm được. Bệnh nhân bị mất nước, rối loạn điện giải, kiệt sức, nằm đại tiện tại chỗ, hậu môn mở rộng, phân tự chảy, mắt trũng, mặt hốc hác, mạch nhanh yếu, tiếng tim mờ, huyết áp hạ, thở gấp, li bì, ngủ gà, có thể tử vong sau 3 - 7 ngày. Nếu điều trị thì sự phục hồi chậm và dễ biến chứng.
Ở trẻ dưới 1 tuổi, ngoài những thể cấp như trên, còn gặp thể rất nhẹ, kín đáo, như rối loạn tiêu hóa: phân loãng, không sốt. Thể bệnh lỵ mạn tính: bệnh có những thời kỳ bộc phát và thuyên giảm xen kẽ.
Thể dạ dày ruột cấp: Bệnh nhân có hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc thức ăn, nôn nhiều lần, phân loãng, không có nhầy máu, đau bụng lan tỏa, sau đó bệnh có thể diễn biến như thể lỵ điển hình.
Thể tối độc: Bệnh nhân đi ngoài nhiều, phân có nhầy mủ, có khi toàn máu, có thể tử vong trong vài ngày đầu do hôn mê, trụy tim mạch.
Ở người cao tuổi, có thể bệnh lỵ kéo dài không còn giai đoạn thuyên giảm, bệnh càng ngày càng nặng, toàn thân suy sụp dần, rối loạn tiêu hóa nặng, thiếu vitamin, thiếu máu.
Phòng ngừa thế nào hiệu quả nhất?
Để chủ động phòng ngừa bệnh lỵ trực khuẩn, mọi người cần thực hiện các biện pháp sau: Thực hiện vệ sinh ăn uống, ăn chín, uống nước đã đun sôi. Thực hiện tốt vệ sinh cá nhân, rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn uống, sau khi đi vệ sinh. Sử dụng nước sạch, giữ vệ sinh nguồn nước công cộng. Sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, không phóng uế bừa bãi, xử lý phân, tuyệt đối không dùng phân tươi bón rau. Khi có các dấu hiệu nhiễm bệnh (đau bụng, sốt), cần đến ngay cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời.