Sốt phát ban có nhiều bệnh và tác nhân gây bệnh khác nhau, nhưng tựu trung có sốt và phát ban. Sốt phát ban chủ yếu gặp ở nước ta là bệnh sởi do virus sởi gây ra, bệnh Ru-ben-la (Rubella) do virus Ru-ben-la gây ra và bệnh do Rickettssia, trong đó ở Việt Nam hay gặp nhất là bệnh sốt mò. Phương thức truyền bệnh của bệnh sởi và bệnh Ru-ben-la là lây theo đường hô hấp, còn bệnh sốt mò môi giới truyền bệnh là do mò đỏ.
Bệnh sốt xuất huyết (SXH), tác nhân gây bệnh là virus Dengue, bệnh lây từ người bệnh sang người lành chưa có miễn dịch chống virus Dengue là muỗi. Có hai loài muỗi truyền bệnh SXH là muỗi vằn và muỗi hổ châu Á.
Cách phân biệt sốt xuất huyết và sốt phát ban
Theo BS Bùi Mai Hương, Bệnh viện Bạch Mai, sốt là một loại bệnh dịch nguy hiểm, nếu muỗi truyền bệnh càng nhiều, tốc độ lây lan bệnh càng nhanh, nếu người dân chưa có miễn dịch chống SXH. Nếu bị SXH, đặc biệt là trẻ em mà không phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí tử vong.
SXH thường có sốt cao liên tục 3 - 4 ngày, ho, sổ mũi, đau nhức mình mẩy, đau nhức hố mắt, nôn và có thể tiêu chảy. Sốt trong bệnh SXH khó giảm với thuốc hạ sốt paracetamol trong 3 ngày đầu và khi sốt bắt đầu giảm sẽ bắt đầu xuất huyết, biểu hiện như da sung huyết (da đỏ ửng, môi khô đỏ tươi... do hiện tượng cô đặc máu), có chấm xuất huyết ở dưới da, chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam, mắt đỏ và hay kèm nôn, chân tay lạnh.
Thông thường từ ngày thứ 3, bệnh có tiến triển nặng, nhất là trẻ em, vì vậy, nếu không được chẩn đoán sớm và xử trí kịp thời sẽ có nguy cơ diễn biến xấu bởi sốc hoặc do tổn thương các cơ quan khác.
Đối với bệnh sốt phát ban, hầu hết các trường hợp bắt đầu với triệu chứng sốt cao từng cơn (thân nhiệt có thể tăng lên 39 - 400C) và xuất hiện ho, đau họng, chảy nước mũi hoặc nghẹt mũi, mệt mỏi, có thể nôn mửa và phát ban đỏ. Các hạch khu vực đầu, mặt, cổ thường sưng to, đau có thể nhìn hoặc sờ thấy. Kết mạc mắt đỏ, viêm, chảy nước mắt...
Nếu nguyên nhân gây sốt là do virus đường tiêu hóa, có thể sớm xuất hiện tình trạng rối loạn tiêu hóa (phân lỏng, nhầy, không có máu và có thể nôn ói sau khi ăn). Hầu hết bệnh sốt phát ban từ ngày thứ 4 trở đi người bệnh thường hết sốt, ăn được, da có thể bị nổi phát ban 3 -5 ngày rồi lặn.
Để phân biệt sốt xuất huyết với sốt phát ban, cách đơn giản nhất là dùng ngón tay cái và ngón trỏ cùng bên căng vùng da có chấm đỏ (ban đỏ) hoặc vùng da sung huyết, nếu thấy chấm đỏ đó mất đi, buông ra là màu đỏ hồi phục ngay là sốt phát ban, còn nếu vẫn thấy chấm li ti hoặc sau 2 giây màu đỏ lại xuất hiện, đó là SXH (đây là dấu hiệu ấn ngón tay hoặc thời gian hồi phục màu da trong chẩn đoán bệnh SXH). 2 tiêu chuẩn để nghĩ đến SXH là sốt cao đột ngột và xuất huyết. Nếu có điều kiện nên xét nghiệm công thức máu sẽ thấy bạch cầu có thể giảm, tiểu cầu giảm rõ, tốc độ lắng máu tăng.
Lưu ý cần nhớ khi bị sốt xuất huyết
Cũng theo BS Bùi mai Hương, không nên nghĩ rằng đã mắc SXH một lần, lần sau không mắc nữa, bởi vì SXH ở nước ta có 4 týp huyết thanh khác nhau, mắc bệnh loại nào, lần sau sẽ không mắc loại đó nhưng vẫn có thể mắc 1 trong 3 loại còn lại.
Khi bị SXH nếu dùng thuốc hạ nhiệt phải hết sức thận trọng, chỉ nên dùng loại paracetamol đơn chất (không có kết hợp các loại khác), không dùng aspirin, efferalgan,... tốt nhất là chườm mát ở trán, nách, bẹn để hạ nhiệt. Nếu dùng thuốc paracetamol đơn chất cũng phải theo dõi thật tốt, bởi vì, sau vài ngày sốt cao, thân nhiệt có thể bắt đầu giảm, nếu vẫn dùng thuốc hạ nhiệt sẽ nguy hiểm cho người bệnh.
Một số tác giả khuyên rằng khi đang bị sốt cao trong SXH không nên truyền dịch ngay vì rất dễ bị sốc (nhất là đạm) do cơ thể đang phản ứng mạnh (sốt cao) chống virus. Cần bù nước và chất điện giải do bị mất bởi sốt cao bằng cách dùng dịch oresol (ORS) là tốt nhất nhưng phải pha thuốc đúng chỉ dẫn (một gói ORS cam loại 5,63g cho vào 200ml nước đun sôi để nguội). Ngoài ra nên uống thêm nước cam, chanh tươi, nước ép các loại quả (dưa hấu,...).
Nếu thấy có dấu hiệu khác thường cần cho người bệnh đi bệnh viện ngay, nhất là trẻ em (chân tay lạnh, da lạnh ẩm, vật vã, bứt rứt khó chịu, đau bụng, mạch nhỏ, tiểu ít, huyết áp tụt hoặc kẹp).